Kinh Hiền Ngu (Phẩm 36-46)

Phẩm thứ ba mươi lăm: A DU CA

Chính tôi được nghe Một thời đức Thế Tôn ở nước Xá Vệ, tại vườn Cấp Cô Độc cây của Kỳ Đà.

Một buổi sớm ấy đức Phật và tôi vào thành khất thực, gặp lũ trẻ con, đương nô nghịch đất giữa đường, nó đắp một cái thành, có đủ nhà cửa kho tàng thóc lúa bằng đất. Một đứa nó nhìn thấy Phật có hào quang sáng, tự phát tâm cung kính, vui mừng! Khi Phật đi tới nơi, nó chắp tay vái, và dâng một mẩu đất cúng dàng.

Phật cầm lấy giao cho tôi, và dặn tôi mang về bôi trên thềm nhà chỗ Ngài ngủ. Khi trở về rừng Kỳ Hoàn, tôi đem đất làm theo lời Ngài dạy. Ngài bảo rằng:

– A Nan vừa rồi đứa nhỏ hoan hỷ cúng đất công đức ấy sau khi ta vào Niết Bàn, khoảng độ trăm năm; nó sẽ được làm vua tên là A Du Ca còn các trẻ nhỏ đồng bạn, được làm quan đại thần cai trị tất cả các nước Châu Diêm Phù Đề; làm hưng long cho ngôi Tam Bảo phân phát Xá Lợi, xây tám vạn bốn ngàn ngọn tháp, khắp Châu Diêm Phù Đề cúng dàng ta.

Tôi vui mừng bạch Phật rằng:

– Kính lạy đức Thế Tôn! Đời quá khứ Ngài tu công đức gì, mà được phú báu nhiều tháp như thế? Cúi xin chỉ bảo cho chúng con được rõ?

– Phật dạy: – A Nan ông muốn biết hãy nghe cho kỹ ta sẽ nói cho hay!

– Dạ, lạy đức Thế Tôn con xin chú ý nghe!

– A Nan, thuở đời quá khứ đã xa xưa, có một ông vua nước lớn tên là Ba Tắc Kỳ, cai trị tám vạn bốn ngàn nước nhỏ, thời đó có đức Phật tên là Phất Sa ra đời. Nhà vua và nhân dân tôn sùng đạo Phật, thường ngày dâng lên bốn món cúng dàng thức ăn uống, áo mặc, giường tòa, thuốc thang rất trịnh trọng. Nhà vua nghĩ thầm như vầy:

– Đức Phật là phúc điền cõi nhân gian thiên thượng, ai trồng nhân lành gì được kết quả ấy, nhân dân nước ta thường được thấy Phật lễ Phật; cúng dàng Phật, còn các nước nhỏ ở xa xôi, nhân dân không biết nương đâu tu phúc, vậy ta hãy thuê người vẽ hình tượng Phật, ban phát cho các nước để cúng dàng cầu phước.

Nghĩ thế rồi gọi họa sĩ đến chốn Phật, nhìn vẽ cho đúng tướng của Ngài. Song họ vẽ mãi không thành. Sau đức Phật Phất Sa, Ngài sẽ tự vẽ lấy một kiểu để cho họ họa lại.

Các họa sĩ cứ thế phóng ra được tám vạn bốn ngàn bức rất đẹp, cũng giống như bức tranh Ngài vẽ.

Vua Ba Tắc Kỳ đem tranh ấy ban cho mỗi nước một bức, và truyền lệnh cho nhân dân các nước đem hương hoa âm nhạc nghinh thỉnh rước về.

Vua quan nhân dân các nước, tuy được bức tranh, nhưng lòng tôn kính cúng dàng như thấy đức Phật hiện tại không khác.

– A Nan ông nên biết: Vua Ba Tắc Kỳ thuở đó chính là tiền thân của ta đấy, do thời đó thuê một thợ vẽ tám vạn bốn ngàn hình tượng đức Phật Phất Sa, ban phát cho nhân dân các nước cúng dàng lễ lạy. Bởi công đức ấy đời đời được làm Đế Chúa trong cõi nhân thiên, sinh xứ nào thân thể cũng được đẹp đẽ tốt tươi, đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, đến nay thành Phật cũng do một trong công đức ấy; và sau khi vào Niết Bàn được quả báo tám vạn bốn ngàn tháp.

Tôi và tất cả mọi người nghe Phật nói xong, ai nấy đều vui vẻ phát tâm tu phúc cúng dàng, cúi đầu tạ lễ lui ra.

Phẩm thứ ba mươi sáu: BẢY LỌ VÀNG

Chính tôi được nghe Một thời đức Phật ở nước Xá Vệ, tại vườn Cấp Cô Độc, cây của Thái Tử Kỳ Đà.

Khóa an cư năm ấy, đức Phật cho các vị Tỳ Khưu được tùy ý đi các nơi kết tập.

Khi hết hạn, các vị đều về thăm Phật và nhận chịu lời dạy bảo của Ngài. Phật và các vị trong chín tuần xa cách, hôm nay về nơi Ngài đông đảo Ngài vui vẻ! Với lòng từ bi cất cánh tay ngàn vòng xoáy, xoa đầu các vị rồi hỏi:

– Các người ở xa, sự an cư có được yên không? Ăn uống có đầy đủ không? Ít bệnh ít não không?

– Dạ, lạy đức Thế Tôn! Nhờ công đức Thế Tôn, năm nay được an cư yên ổn! Mọi điều kiện đều được đầy đủ. Sự giáo hóa dễ dàng, chúng sinh vui vẻ!

Công đức của Phật như trời cao! Như biển cả! Khắp nhân gian thiên thượng ai bì kịp, hôm nay thấy Ngài tuy hỏi han các vị, nhưng có một vẻ khiêm kính, khác mọi lúc, chắc có một thâm ý gì khác, nên tôi tới trước quỳ thẳng chắp tay bạch rằng:

– Kính lạy đức Thế Tôn! Ngài xuất thế là một việc rất hiếm có, công đức và trí tuệ, rộng như hư không, lớn như pháp giới. Hôm nay Ngài hạ ý hỏi han các vị Tỳ Khưu một cách khiêm kính. Không rõ lời nói khiêm kính ấy là gần hay xa, cúi đầu chỉ bảo cho chúng con được rõ?

Phật dạy: – A Nan, muốn biết hãy để ý nghe, tôi sẽ vì ông mà nói!

– Dạ lạy đức Thế Tôn! Con xin chú ý nghe!

– A Nan, câu chuyện này từ đời quá khứ, đã lâu lắm, không thể tính được, cũng Châu Diêm Phù Đề này, có một nước lớn tên là Ba La Nại, có một người chăm làm giàu, được đồng nào chỉ mua vàng cất kỹ, không dám ăn uống may sắm dần dần được một lọ vàng đem chôn, cứ như thế chăm chỉ làm ăn cực khổ đã lâu năm không dám tiêu xài, và giúp đỡ cha mẹ anh em, sau được sáu lọ nữa cũng đem chôn giấu hết.

Qua thời gian chẳng may bị bệnh chết mất, vì tiếc vàng nên phải đọa làm thân con rắn độc, ở ngay nhà mình, để coi bảy lọ vàng. Trải qua lâu năm nhà ấy bị mục nát hư hỏng, con rắn ấy cũng chết: Bởi linh hồn rắn còn tham tiếc vàng, nên bị đọa làm thân rắn một lần nữa, chừng vài muôn năm, quanh quẩn coi giữ, trên đống đất chôn vàng; coi giữ mãi, thấy không có ích gì, sinh lòng chán ghét, thầm nghĩ như vầy:

– Ta vì tham tiếc vàng nên phải chịu thân thể xấu ác, vậy đem số vàng này cúng dàng, để cầu cho ta đời đời được nhiều phước tốt lành trên cõi nhân, thiên.

Nghĩ xong bò tới bên lề đường lẩn thân trong đám cỏ, chợt thấy một người đi qua, lớn tiếng gọi: Người ấy nghe tiếng gọi đứng lại nhìn xung quanh không thấy ai, lại bắt đầu đi, con rắn liền bò ra giữa đường gọi rằng:

– Này bác kia ơi! Bác lại gần đây tôi nhờ bác việc này!

Đáp: – Ngươi độc ác như vậy! Gọi ta làm chi, lại gần để hại ta hay sao?

– Phải, tôi ác như thế này, nếu không lại tôi sẽ tác hại đấy!

Người đó tuy sợ nhưng cũng phải đến gần.

Rắn nói: – Nhà tôi có lọ vàng, muốn nhờ bác đem đi cúng dàng cầu phước, bác có thể hộ tôi được không? Nếu không hộ, tôi sẽ cắn chết!

– Vâng, tôi xin giúp, không sao!

Rắn dẫn ông này về đống đất chôn vàng, bảo ông bới lên một lọ rồi nói rằng:

– Bác mang vàng này đến chùa cúng dàng, và lấy ra một ít, nhờ bác bán lấy tiền, mua gạo và các món ăn, hoa quả làm cơm chay cúng sư Tăng, định ngày nào cúng thì mang một cái gậy đến đây khiêng tôi đến chùa!

Người ấy mang vàng đến chùa đưa cho ông Tăng Duy Na, và nói lý do như trên cho ông nghe.

Ông Duy Na cười nói: – Rắn độc sao lại biết cúng dàng như vậy? Muốn cúng tôi sẽ định ngày cho!

– Thưa Ngài hôm nào ngài cho biết trước để sửa soạn?

– Ngày mười rằm tới, là ngày trai, cũng là ngày sám hối, cúng ngày đó công đức vô lượng!

– Dạ, xin phép Ngài tôi về để thu xếp công việc!

Tới ngày nói trên, ông mang một cái gậy đến, rắn thấy ông vui vẻ hỏi han? Rồi quấn mình vào cây gậy phủ cái chăn chiên lên trên cho người ta khỏi nhìn thấy, đi đường gặp người hỏi:

– Ông khiêng cái gì đẹp thế?

Ông lặng yên không trả lời, họ lại hỏi:

– Ông khiêng gì đẹp thế?

Họ hỏi đến ba lần, ông vẫn làm thinh không trả lời. Rằn thấy ông không trả lời, giận quá! Nghĩ như vầy:

– Anh này dở quá, người ta trịnh trọng hỏi đến ba lần, mà không nói, thực là ngu si quá!

Nghĩ như thế thì độc tâm lại càng bộc phát, định nhả độc phun chết ông. Xong lại thầm nghĩ:

– Người này vì ta làm phước, ơn đó chưa trả, vậy ta nên nhẫn đi.

Một lát đi tới chỗ đất không đồng vắng, rắn tự nói rằng:

– Bác để tôi xuống đây!

Vừa để xuống, rắn mắng rằng:

– Con người ta có mồm để nói để ăn, anh có mồm để làm gì? Mà người ta hỏi đến ba lần không nói? Anh ngu si quá!

Ông nghe rắn mắng, nhưng tâm không có giận, tự hối hận một vẻ khiêm tốn và xin lỗi. Rắn lại dặn rằng:

– Từ đây trở đi, anh không được thế nữa, ai hỏi phải nói đàng hoàng.

– Dạ từ nay tôi xin thọ giáo, không dám như trước nữa!

Khi đến chùa để rắn trước giảng đường, vừa đúng thời trai chư Tăng, ông đứng ở lối kinh hành.

Rắn sai ông dâng hương cúng sư Tăng; rắn nhìn ông dâng hương, bằng cặp mắt thành kính tín ngưỡng, không hề chớp. Khi Tăng chúng đi nhiễu quanh tháp. Rắn sai ông dâng nước, và giương đôi mắt cung kính quan sát!

Chư Tăng dùng cơm xong thuyết pháp cho nghe như sau:

– Bố thí cúng dàng được phước báu giàu sang, thân hình khỏe mạnh.

Giữ giới được sinh nhân, thiên, hưởng phúc tốt lành. Thấy Phật và sư Tăng hoan hỷ chiêm bái thì được thân tướng đoan nghiêm tươi đẹp. Keo sẻn tích trữ, không chịu bố thí, thì đọa làm loài quỷ đói. Tâm tham độc sân si, bị loài thú ác độc trùng, trăn, rắn.

Rắn nghe xong vui vẻ thưa rằng:

– Kính thưa Đại Đức! Mời Ngài đến chỗ con ở, hãy còn sáu lọ đem về chùa dâng lên Tam Bảo, làm lễ cầu nguyện, hướng phúc cho rắn, nhân sự cầu nguyện ấy và phước cúng dàng, rắn chết được lên cõi trời Đao Lợi.

Tới đây Phật thuật lại rằng:

– A Nan, ông nên biết: Người khiêng rắn ấy há phải ai đâu; chính là tiền thân của ta đấy! Rắn độc thuở đó; nay là ông Xá Lợi Phất.

Ngày ấy ta bị rắn mắng trách còn tự thẹn hổ, và sinh lòng khiêm hạ, kông những thế, ta đối với tất cả muôn loài, đều coi bình đẳng, cho đến nay không thoái chuyển.

Khi đó tôi và các vị Tỳ Khưu, nghe Phật nói xong, ai nấy đều kính phục, tâm bình đẳng khiêm nhượng của người, một lòng lễ kính, bái tạ lui ra.

Phẩm thứ ba mươi bảy: SAI MA

Chính tôi được nghe Một thời đức Phật ở nước La Duyệt Kỳ tại Tinh Xá rừng Trúc, với vô số đệ tử ở đó.

Bấy giờ có một người dòng Bà La Môn, nhà nghèo, tuy có chăm làm nhưng cũng không đủ ăn, đủ mặc, anh nghèo ấy hỏi người ta rằng:

– Ở thế gian làm những hạnh gì được phúc báu hiện tại?

Có người mách bảo rằng:

– Anh không biết ư? Hiện nay Đức Phật xuất thế độ sinh, làm lợi ích cho tất cả muôn loài. Ngài có bốn vị tôn đệ tử là: MA HA CA DIẾP, MỤC KIỀN LIÊN, XÁ LỢI PHẬT, A NA LUẬT. Bốn vị Hiền Sĩ này, hay thương những người nghèo đói, và tác phúc cho những chúng sinh đau khổ.

Nếu ai chí tâm tin kính cúng dàng những vị ấy, thì đời hiện tại này, muốn cầu gì cũng được toại nguyện.

Anh chàng Bà La Môn nghe mọi người đều nói như vậy, rất vui mừng! Tự đi làm thuê được món tiền nhỏ đem về mua sắm các món ăn, sửa soạn trai nghi trịnh trọng mời các vị Hiền Thánh Tăng đến nhà cúng dàng với lòng thành kính, thiết tha cầu phúc báu hiện tại. Vợ anh tên là Sai Ma (Tàu dịch: An Ôn).

Các vị tôn đệ tử tới nhà dùng cơm xong, thuyết pháp cho vợ chồng anh nghe như sau:

– Tội phúc, như bóng theo hình, như vang ứng tiếng, trồng nhân gì sẽ kết quả ấy. Muốn cho tội chướng tiêu trừ, phúc đức lớn lao, phải biết tôn kính ngôi Tam Bảo, thọ trì Tam Quy, Ngũ Giới; Bát Quan Trai giới, bố thí, cúng dàng, thì đời hiện tại, hay tương lai muốn cầu gì cũng được toại nguyện.

Vợ chồng cúi đầu lễ kính, xin thọ trì Tam Quy, Ngũ Giới và Bát Quan Trai giới, truyền giới xong các vị trở về Tinh Xá.

Bấy giờ vua Bình Sa vào rừng trở về, gặp một người phạm tội bị trói treo trên đầu cột dựng bên đường.

Người có tội ấy xin vua món ăn, nhà vua nhận lời cho, nhưng về thành quên mất, chợt nhớ ra thì trời đã tối; nhà vua sai người hầu hạ trong Hoàng cung mang cơm cho tội nhân, nhưng không ai dám đi, họ thưa với vua rằng:

– Tâu Bệ Hạ, giờ đã tối khuya, mãnh thú; ác quỷ rất nhiều, chúng tôi thà chết ở đây chứ không dám đi.

Nhà vua hết sức thương người đó đói khổ, sai người ra ngoài thành báo cáo rằng:

– Đêm nay nếu ai đem món ăn cho người có tội ở nơi mổ, thì nhà vua thưởng cho ngàn lạng vàng!

Không ai dám đi, Sai Ma thường nghe họ nói rằng:

– Nếu ai thọ phép Bát Quan Trai giới, thì ma quỷ, ác thú không dám làm hại!

Mạnh dạn với một lòng tin vững chắc, đến xin vua đi. Khi đi, nhà vua dặn: – Nếu được hoàn toàn trở về, ta sẽ cho ngàn lạng vàng.

Ra đi, Sai Ma chí thành, chí kính trì phép Bát Quan Trai, ra khỏi thành đã xa xa gặp một con quỷ La Sát tên là Lam Bà, vừa lúc ấy nó mới sinh được năm trăm quỷ con, đương lúc đói thấy Sai Ma muốn bắt ăn. Nhưng Sai Ma trì trai, quỷ trông thấy sợ hãi không dám ăn, quỷ hỏi Sai Ma rằng:

– Chị đi đâu? Có món ăn cho tôi một chút!

– Sai Ma trao cho một chút món ăn, tuy ít nhưng vì lực của quỷ nên cũng được no đủ.

Quỷ La Sát hỏi: – Chị tên chi?

– Tôi tên là Sai Ma!

Quỷ vui vẻ nói: – Hôm nay tôi sinh cháu được lành mạnh, cũng do phúc của chị, mà tôi được sống, lại được nghe danh hiệu tốt, nhà tôi có cái búa vàng, xin đền đáp ơn chị, lúc về qua đây, chị nhớ vào lấy.

– Dạ, chị có lòng tốt em xin nhớ lời dặn.

Quỷ lại hỏi: – Bây giờ chị đi đâu?

– Thưa chị, em mang thức ăn cho người có tội ở nơi mổ!

– Tôi có một em gái cũng ở gần đấy, tên là A Lam Bà, tôi gởi lời thăm và bảo cho biết: Tôi mới sanh được năm trăm cháu, thân thể lành mạnh.

Sai Ma đi tới chỗ quỷ A Lam Bà cũng nói như trên cho quỷ nghe.

A Lam Bà nghe xong vui vẻ hỏi:

– Chị tên chi?

– Em tên là Sai Ma!

Cô quỷ vui vẻ nói: – Chị tôi sinh được lành mạnh, tên cô cũng tốt lành lắm, nhà tôi có cái búa vàng, xin biếu cô, lúc về nhớ vào qua mà lấy.

– Dạ, quý hóa! Chị có lòng tốt tôi xin nhận!

Cô quỷ lại hỏi: – Bây giờ cô đi đâu?

– Thưa chị, theo lệnh nhà vua em mang món ăn, cho tội nhân nơi mổ!

Cô quỷ A Lam Bà nói: – Tôi cũng có một người em tên là Phân Na Kỳ ở gần đấy, tôi gởi lời hỏi thăm.

Sai Ma từ giã cô quỷ, đi đến chỗ quỷ Phân Na Kỳ, cũng đem lời hỏi thăm của hai bà chị nói cho nghe, và nói thêm bà chị cả sinh được năm trăm cháu đều vô sự. Được tin hai bà chị bình an rất vui vẻ và hỏi:

– Cô tên chi?

– Tôi tên là Sai Ma!

– Tên cô tốt lành, và được tin hai chị tôi mạnh khỏe, thực là quý hóa! Nhà tôi có cái búa vàng xin biếu cô, lúc về qua nhớ vào lấy.

– Quý hóa, có lòng cho, tôi xin nhận.

Sai Ma đi một lát tới nơi chỗ tội nhân, đưa món ăn và nói rằng:

– Nhà vua cho món ăn này, anh lấy mà dùng cho khỏi đói!

Anh vui mừng! Nhận cơm, và cảm tạ một cách rất tha thiết. Sai Ma trở về lấy ba cái búa vàng, và đến nhà vua lấy thưởng một ngàn lạng vàng.

Từ đó vợ chồng Sai Ma được giàu sang sung sướng, làm nhà cửa mua ruộng nương, nuôi đầy tớ, nhân dân đến làm thuê rất đông.

Vua Bình Sa thấy Sai Ma là người có đức, triệu vào cung cho làm quan đại thần, được lộc nước ơn vua, nhà lại giàu thêm, từ đó lòng tín kính Phật Pháp của Sai Ma càng tiến tới.

Một hôm Sai Ma sửa soạn trai nghi, mời Phật và Sư Tăng về nhà cúng dàng.

Khi Phật dùng cơm xong Ngài lên tòa thuyết pháp nói về phúc bố thí và phép trì giới, phép sinh thiên.

Sai Ma nghe xong tâm ý sáng tỏ, dắc quả Tu Đà Hoàn.

Bấy giờ tất cả mọi người dự cuộc thuyết pháp này, ai nấy đều hoan hỷ, phát tâm cúng dàng bố thí, giữ giới tu đức, cúi đầu lễ tạ mà lui.

 

 

 

Phẩm thứ ba mươi tám: CÁI SỰ

Chính tôi được nghe Một thời đức Phật ở nước La Duyệt Kỳ, tại tinh xá vườn Trúc. Lúc ấy tôi đương tọa thiền trong rừng tự nghĩ rằng:

– Đức Phật xuất thế thực là một điềm lạ lùng, độ người nhiều như vậy. Sự ăn uống đầy đủ, hơn nữa lại được hết khổ, tất cả vua, quan, dân chúng được lợi ích vô cùng tận. Vì sao? Vì Ngài vạch đường chỉ lối, cho thoát khỏi tam đồ ác đạo, đời vị lai được hưởng phúc báu trên cõi nhân thiên, hơn nữa lại được đạo Niết Bàn. Nghĩ thế rồi tôi đứng dậy về tinh xá. Khi đó đức Thế Tôn đương thuyết pháp cho đại chúng nghe. Tôi mặc áo chễ vai bên hữu, tới trước quỳ gối bên hữu xuống đất, chắp tay, chiêm ngưỡng rồi đem ý nghĩ trên bạch Phật.

Phật dạy: – A Nan! Ông nghĩ như thế phải đấy, Như Lai ra đời cũng rất lạ, vì tất cả chúng sinh được lợi ích lớn, và cũng không cứ gì ngày nay thế đâu, đời quá khứ ta cũng đã làm lợi ích cho nhiều.

– Kính lạy Ngài! Đời quá khứ Ngài làm lợi cho chúng sinh thế nào, cúi xin nói lại cho chúng con được biết?

– A Nan! Đời quá khứ tính số kiếp A Tăng Kỳ đã quá lâu, cũng Châu Diêm Phù Đề này, có bốn con sông, và hai ông vua nước lớn. Một ông tên là Ba La Đề Bà (Tàu dịch Phạm Thiên), ông này chiếm cứ ba con sông, nhân dân giàu thịnh, nhưng quân sự kém.

Một ông tên là Phạt Sà Kiện Đề (Tàu dịch: Kim Cương Tụ), ông này có một con sông, dân chúng ít, nhưng quân sự giỏi.

Vua Kim Cương Tụ thầm nghĩ như vầy:

– Quân ta hùng mạnh, có một con sông ít nước, vua Phạm Thiên quân lực kém, chiếm giữ ba con sông, phải sai người sang đòi lại một con sông, nếu trả thì ta chơi thân với, có của gì tốt ta sẽ biếu, nếu gặp sự nguy biến ta sẽ đem quân sang cứu; nếu không, ta sẽ mang quân đánh lấy lại!

Nghĩ thế rồi triệu các quan Đại Thần vào bàn việc nước. Sau cuộc hội nghị, nhà vua sai sứ mang thư sang cho vua Phạm Thiên, như trên đã định.

Vua Phạm Thiên xem thư xong, thần nghĩ như vầy:

– Giang sơn đất nước là của cha ta để lại, chớ không phải ta cướp đoạt của hắn mà hắn đòi.

Nghĩ xong bảo Sứ giả rằng:

– Giang sơn đất nước không phải tự ta mà có, đây là của cha ta truyền lại, vô cớ đem trả cho chúa nhà ngươi, cả một sự vô lý. Nếu chúa nhà ngươi dùng quân lực chiến đấu, thì ta đây cũng không hẹp gì!

Sứ giả về nước tâu vua như lời nói trên. Vua Kim Cương Tụ đem đại hùng binh sang đánh một trận. Quân vua Phạm Thiên thất trận chạy tán loạn! Thừa cơ, quân Kim Cương Tụ đuổi tới kinh thành, vây bốn mặt.

Quân vua Phạm Thiên sợ không dám ra chiến đấu, các quan thấy sự nguy ngập nên tâu rằng:

– Tâu Bệ Hạ! Quân họ mạnh, quân ta yếu. Bệ Hạ tiếc chi một con sông mà để di hại cho muôn dân, không chừng còn mất nước là đàng khác, cúi xin Bệ Hạ trả lại cho họ còn có tình nghĩa hơn.

Nhà vua đồng ý, sai người ra thưa với vua Kim Cương Tụ rằng:

– Tâu Bệ Hạ! Chúa công tôi xin chấp thuận lời yêu cầu trước của Bệ Hạ, để trả lại một con sông, và dâng vua thêm một người con gái. Từ đây trở đi nếu nước nào có vật gì quý thì tặng lẫn cho nhau, gặp lúc nguy hiểm thì sẽ bênh vực nhau!

Vua Kim Cương Tụ đồng ý rút quân, rồi đem người con gái ấy về làm vợ.

Qua một thời gian cô có thai, và luôn có một chiếc tán thất bảo che trên đầu, đi, đứng, nằm, ngồi thường như vậy. Mãn kỳ sinh được cậu con trai, thân sắc vàng, tóc xanh mướt, có bóng sáng lóng lánh nơi thân thể. Từ khi sinh cậu ra, thì cái tán ấy lại che trên đầu cậu.

Nhà vua với các thầy tướng vào xem, các thầy đều khen! Và tâu vua rằng:

– Tâu Bệ Hạ! Quý hóa lắm. Thái tử nhân tướng đầy đủ, đức lực viên mãn, trên đời có một không hai!

Nghe tướng sư nói, nhà Vua và Hoàng hậu rất vui mừng! Lại nhờ đặt tên cho Thái Tử.

Theo cổ truyền, đặt tên phải căn cứ vào hai việc:

1. Điềm lành.

2. Tinh tú.

Tướng sư tâu vua rằng:

– Tâu Bệ Hạ! Khi hoài thai có điềm gì lạ không?

– Trong khi hoài thai, có tán bằng thất bảo che trên đầu.

– Tâu Bệ Hạ! Cứ theo điềm này xin đặt là: Sái La Già Lợi (Tàu dịch: Cái Sự).

Thái tử đến tuổi trưởng thành thì vua chết, an táng cho vua xong, Thái tử lên nối ngôi, chấp chính được vài năm, thường đi chơi các miền quê để quan sát dân sự làm ăn.

Trời nắng như đốt, những người nông phu cởi trần trùng trục, với con trâu kéo cày, tiếng kêu “cót két”, dưới bãi đất lầy một cách lao khổ, đọa đày thể xác.

Nhà vua hỏi tả hữu rằng: – Những người này làm gì khó nhọc thế?

– Tâu Bệ Hạ! Nước lấy dân làm gốc, dân lấy thóc làm mạng sống, nếu không làm lụng khó nhọc, thì không lấy gì bảo tồn được mạng sống của dân; dân nếu nghèo thì nước phải nguy vong!

Nhà vua nói: – Nếu phúc đức của tôi được làm vua, thì nhân dân không phải cấy cày, thóc lúa tự nhiên có đủ ăn dùng.

Nhà vua nguyện xong, thì tất cả trong nước nhà ai cũng có lúa thóc, tuỳ lòng ước muốn thứ lúa nào, thì có thứ lúa ấy, từ đó nhân dân không phải cày cấy, thức ăn tự nhiên có sẵn.

Thời gian sau, nhà vua đi ra lần thứ hai, thấy những người dân, đẵn củi, gánh nước, giã gạo mồ hôi nhễ nhại, coi rất khó nhọc. Nhà vua hỏi các quan rằng:

– Những người này làm gì mà lao khổ như thế?

– Tâu Bệ Hạ! Nhân dân mong ơn Bệ Hạ, được lúa thóc tự nhiên, không phải cày cấy. Nhưng phải xay giã, kiếm củi nấu chín mới ăn được; vì thế họ còn phải khó nhọc!

Nhà vua nói: – Nếu phúc đức tôi được làm vua, thì xin cho dân nước tôi, khi muốn thì các món ăn tự nhiên hiện ra trước mặt.

Nhà vua nói sao được vậy. Từ đó nhân dân đều được các món ăn tự nhiên chứ không phải làm.

Qua thời gian ấy vua lại đi chơi, thấy người kéo bông, se chỉ, dệt vải may áo, vua hỏi rằng:

– Những người này làm gì, coi vẻ khó nhọc như thế?

– Tâu Bệ Hạ! Nhân dân nhờ ơn đức hóa của Bệ Hạ, được món ăn tự nhiên, giờ đây họ dệt vải để may áo mặc.

Nhà vua nói: – Nếu phúc đức của tôi được làm vua, thì khiến cho những cây cối trong nước sinh ra các thứ áo!

Nói xong, tất cả cây cối trên mặt đất đều sinh ra các thứ áo xanh, vàng, đỏ, trắng, tuỳ theo ý muốn của từng người ưa thích.

Qua thời gian ấy vua lại đi chơi, thấy các người dân đua nhau làm các thứ âm nhạc, hỏi rằng:

– Những người này họ làm cái gì như vậy?

– Tâu Bệ Hạ! Nhân dân mong ơn Bệ Hạ, ăn mặc được đầy đủ, giờ đây họ làm các thứ âm nhạc, để ca hát vui chơi cho khoái chí!

Nhà vua nói: – Nếu phúc đức của tôi được làm vua, thì khiến cho các cây cối trên mặt đất, sinh ra các đồ âm nhạc, theo ý muốn của từng người ưa thích.

Nói xong, thì tất cả các cây trên mặt đất đều sinh ra các thứ nhạc khí.

Qua thời gian sau, các quan bản triều đến bái tạ! Nơi điện tiền nhà vua, khi tới bữa ăn, vua lưu lại dùng cơm. Hôm ấy các quân được thưởng thức các món ăn của nhà vua, nhận thấy ngon lành quá, nghĩa là chưa từng được ăn bao giờ, ăn vào thân thể khỏe mạnh sung sướng, họ đều tâu vua rằng:

– Tâu Bệ Hạ! Nhà Hạ Thần không bao giờ có các món ăn này, vừa ngon lành lại vừa khỏe mạnh, ăn vào thấy thân tâm an lạc.

– Nhà vua nói: – Các ông muốn thường được thức ăn như hôm nay, cứ theo đúng giờ ăn của tôi mà ăn, thì sẽ được các món ăn ngon lành.

Sau nhà vua sắc lệnh cho toàn quốc, khi tới giờ vua ăn, phải đánh trống báo cho nhân dân biết. Từ đó nhân dân hễ nghe tiếng trống báo, thì họ nghĩ đến việc ăn, cho nên toàn thể dân chúng trong nước, ai ai cũng được thức ăn ngon như nhà vua.

Khi đó vua Phạm Vương sai sứ sang nói với vua Cái Sự rằng:

– Tại thời cha ngươi, ta cho một con sông, bây giờ cha ngươi chết rồi thì trả lại cho ta!

Cái Sự bảo Sứ rằng:

– Bờ cõi giang sơn đây, cũng không phải ta áp bức của nhà ngươi mà lấy. Song ta làm vua không để mệt sức cho dân, nhưng đó là một việc nhỏ, hãy hoãn lại, sau đây ta với chúa của nhà ngươi được gặp nhau, để nói cái việc thiết yếu của giữa hai nước.

Sứ giả về tâu vua như lời nói trên. Phạm Vương đồng ý, định ngày để gặp.

Ngày hẹn đã tới, hai ông đều đem quân ra bờ sông giáp ranh giới, lên thuyền ra giữa sông để tương kiến.

Vua Phạm Thiên thấy vua Cái Sự thân sáng rực như núi vàng, tóc mượt như lưu ly, mắt sáng tợ sao ngôi, mồm tươi như hoa nở, mũi thẳng, mặt vuông, tai chùng, oai phong lẫm liệt, tự phát sinh lòng kính trọng, cho rằng: – Một ông Trời Đại Phạm, hai người gặp nhau bàn luận về việc đời nước sông!

Cái Sự nói: – Nhân dân nước tôi sự ăn dùng tự nhiên có, không phải tạo tác mệt nhọc, và cũng không phải thâu thuế phạt tiền, tôi không bao giờ bắt dân công làm việc cho nhà vua.

Đương đàm luận thì tới giờ ăn, quân gia của vua Cái Sự đánh trống. Vua Phạm Thiên run sợ! Cho rằng họ bắt mình để giết, liền đứng dậy tạ lỗi, chân tay lẩy bẩy.

Vua Cái Sự đứng lên đỡ ông ngồi xuống và nói rằng:

– Nhà vua làm sao sợ hãi như vậy? Đó là tới giờ ăn, quân đội của tôi đánh trống báo! Vì theo đúng giờ ăn của tôi, thì dân chúng sẽ được nhiều thức ăn ngon!

Vua Phạm Thiên chắp tay thưa rằng:

– Muôn xin Đại Vương thương đên quốc dân chúng tôi, cũng được các món ăn tự nhiên và từ nay chúng tôi xin hàng phục.

Từ đó vua Cái Sự cai trị tất cả nhân dân các nước Châu Diêm Phù Đề.

Sau ngày đăng vị ngồi trên bảo điện, quần liêu bách Quan đứng hầu túc trực suốt ngày đêm.

Buổi sớm ấy, khi mặt trời mới mọc, có xe Kim Luân bảo, bay từ phương Đông tới, vua Cái Sự từ trên tòa bước xuống, quỳ thẳng chắp tay hướng lên, lấy tay với, xe ấy dừng lại ngay, đẹp đẽ có quang minh chiếu ra bốn mặt.

Nhà vua nói rằng: – Nếu tôi được làm Chuyển Luân Vương, thì xin xe này ở lại đây!

Nói xong, xe Kim Luân ấy đứng trên hư không trước điện nhà Vua, cách đất bảy cây Đa La, rồi đó tượng bảo, thần châu, ngọc nữ, điển binh, điện tạng, lần lượt bay tới.

Vua Cái Sự từ đó được làm Chuyển Luân Vương, thất bảo đầy đủ, cai trị bốn thiên hạ, tất cả chúng sinh nhờ đức hóa an vui sung sướng. Theo chính sách của nhà Vua nhân dân tu theo mười điều lành:

1. – Không sát sinh

2. – Không trộm cướp

3. – Không tà dâm

4. – Không nói dối

5. – Không nói lưỡi đôi chiều

6. – Không nói ác

7. – Không nói đơm đặt

8. – Không tham lam

9. – Không giận tức

10. – Không si mê.

Sau khi mạng chung được sinh lên cõi Trời tất cả.

Nói tới đây, Phật nhắc lại rằng:

– A Nan! Ông nên biết: vua Cái Sự thuở đó, há phải là ai đâu, chính là tiền thân của ta đấy; vua Kim Cương Tụ là thân phụ ta ngày nay (vua Tịnh Phạn), và sinh ra vua Cái Sự, nay là mẫu thân ta (Ma Gia).

Bởi ta có từ tâm thương chúng sinh, thường cho của cải, cho đạo pháp, để dắt dẫn họ, vì nhân duyên ấy đến nay thành Phật, đặc tôn trong ba cõi, không ai sánh kịp. Cũng vì thế chúng sinh biết tu tập lòng từ bi rộng lớn, lợi ích vô biên.

Tôi lại thưa rằng: – Kính lạy đức Thế Tôn! Không hay đời quá khứ, vua Cái Sự làm Chuyện Luân Vương, tại nhân duyên gì mà được? Và khi nhập thai đã có tán thất bảo che theo, kính xin nói cho chúng con được rõ?

Phật dạy: – A Nan! Đời quá khứ cách nay đã lâu lắm, tính số kiếp A Tăng Kỳ có đến vô lượng, cũng Châu Diêm Phù Đề này, trong quả núi Tiên có vị Bích Chi Phật, mắc chứng bệnh phong, thầy thuốc nói phải dùng sữa bò mới khỏi.

Bấy giờ người lái buôn tên là A Lợi Gia Mật La (Tàu dịch: Thánh Hữu). Ngài Bích Chi Phật nói bệnh cho ông nghe và để ông cúng dàng sữa.

Ông lài buôn Thánh Hữu hoan hỷ cúng dàng. Ngài dùng được ba tháng thì khỏi bệnh. Cảm ơn ấy muốn cho thí chủ được ích lợi lớn nên Ngài bay lên hư không đi, đứng, nằm, ngồi, thân phun ra nước lửa, lúc hiện thân lớn đầy hư không, rồi thu nhỏ lại như chiếc lông mùa Thu; cứ như thế biến hiện ra mười tám lần.

Ông Thấnh Hữu thấy thế rất vui mừng! Và từ trên hư không hạ xuống để nạp thụ sự cúng dàng. Qua một thời gian ngài nhập Niết Bàn.

Ông Thánh Hữu thương nhớ, làm lễ hỏa thiêu cúng dàng, thu lấy Xá Lợi đựng vào bình vàng, và xây một bảo tháp, để bình vàng Xá Lợi vào trong, lại làm một cái tán che trên, hàng ngày đem hương hoa âm nhạc cúng dàng, suốt đời thờ phụng.

Nói tới đây Phật nhắc lại rằng:

– A Nan! Ông nên biết: ông Thánh Hữu do công đức cúng dàng vị Bích Chi Phật, nên được phúc báo vô lượng kiếp, sinhl lên cõi Trời hoặc cõi nhân gian, đều được tôn vinh sung sướng, khi ở thai có tán báu che trên. Ông nên biết: Thánh Hữu thuở đó chính là tiền thân ta đấy. Vậy tất cả chúng sinh bất luận xuất gia hay tại gia cũng nên tu phúc làm sự nhiệp, đời đời kiếp kiếp sẽ được lợi ích vô lượng vô biên như thế đó.

Bấy giờ tôi và mọi người trong cuộc thuyết pháp này, ai nấy đều vui sướng phát tâm tu phúc cúng dàng, cúi đầu tạ lễ lui ra.

Phẩm thứ ba mươi chín: ĐẠI THÍ TÁT BIỂN

Chính tôi được nghe Một thời đức Phật ở nước La Duyệt Kỳ, tại núi Linh Thứu, với các Tôn đệ tử, cùng một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỷ Khưu ở đó. Khi ấy đức Thế Tôn muốn dùng một người Thị Giả.

Các vị Tôn đệ tử đều biết ý của Ngài như vậy. Khi đó ông Kiều Trần Như mặc áo trễ vai hữu, tới trước quỳ thẳng chắp tay bạch rằng.

– Kính lạy đức Thế Tôn! Con xin nguyện suốt đời làm Thị Giả hầu hạ Ngài, cúi xin từ bi hoan hỷ, chấp thuận cho con được ân triêm công đức!

Phật dạy: – Ông nay tuổi đã già yếu, việc hầu hạ không nỡ phiền ông!

Ông lễ tạ lui ra. Tiếp đến Ngài Ma Ha Ca Diếp, Ngài Xá Lợi Phất, Ngài Mục Kiền Liên, và năm trăm đệ tử lần lượt ra tác lễ cầu xin làm Thị Giả. Nhưng Phật không cho ai.

Khi đó, Ngài A Nan Luật xem biết ý Phật muốn dùng ông A Nan, và các bậc đại để tử cũng đều hiểu như thế.

Ngài Xá Lợi Phất và Ngài Mục Kiền Liên đứng dậy lại bên tôi nói sẽ rằng:

– Này ông A Nan! Ý Phật muốn dùng ông làm Thị Giả đấy! Riêng ông được diễm phúc hơn chúng tôi! Vậy ông mau mau đứng lên làm lễ bạch Phật xin thân thừa Ngài, để cho toàn thể Tăng chúng cũng được nhờ ông một phần lớn!

Tôi nghe lời hai Thượng Tọa nói rồi, chắp tay thưa rằng:

– Kính thưa hai Thượng Tọa! Thế Tôn đức rộng, tuệ sâu, tôi thân cận hầu hạ sợ sơ xuất phải tội, và chiêu họa thì sao?

Ngài Xá Lợi Phất nói:

– Chúng tôi xem biết đức Thế Tôn chú ý đến ông nhiều hơn, vì xét có thể kham năng được, nên Ngài muốn dùng ông làm Thị Giả!

Tôi thấy hai Thượng Tọa nói như vậy, chẳng biết làm thế nào! Tôi thưa rằng:

– Dạ! Nếu hai Thượng Tọa, thưa với Phật cho được ba điều nguyện này, thì tôi xin làm Thị Giả:

1. – Áo cũ của đức Thế Tôn xin Ngài đừng cho tôi dùng.

2. – Đức Thế Tôn ăn thừa xin chớ cho tôi ăn.

3. – Thờit tiết tiến hiện (Chỉ), tùy tôi lo liệu, được như thế thì tôi xin làm.

Hai Thượng Tọa đem ý kiến của tôi lên bạch Phật, Phật bảo rằng:

– Ông A Nan sở dĩ không muốn mặc áo cũ của ta, là do lòng ông nghĩ xa, sợ các đệ tử sinh tâm hiềm khích. Vua quan nhân dân cúng Phật, những cái áo quý đẹp, cho rằng ông tham cầu mà làm Thị Giả. Hai là chuyện không ăn cơm của ta, là lo các đệ tử sinh lòng như vầy: Trong bát của Như Lai ăn thừa, trăm mùi ngon bổ, trên đời hiếm có, cho rằng ông tham cầu những món ấy mà thân cận Phật hay sao? Còn nguyện thứ ba, tự lo lượng thời tiết tiến hiện, là sợ các đệ tử, và các ngoại đạo lại nạn vấn, trong những thời giờ không hợp pháp, làm xúc não ta. Song làm Thị Giả, phải xem thời tiết mà dâng các món ăn cho thích hợp, để lợi ích thân thể Như Lai, mỗi mỗi việc đều phải có chế độ. Vì thế mà ông nguyện xin ba điều ấy. Nhưng cũng không cứ gì thời nay ông tự biết thời tiết mà xin thế đâu! Thời quá khứ ông đã hầu ta, và cũng khéo biết sự tiến hiện (Chỉ) như vậy:

Khi đó Ngài Xá Lợi Phất thưa rằng:

– Kính lạy đức Thế Tôn! Không hay đời quá khứ, ông A Nan hầu hạ Ngài, khép biết thời tiết, việc ấy thế nào xin nói cho chúng con được biết nguyên do?

Phật dạy: – Xá Lợi Phất! Ông muốn biết, hãy để ý nghe, ta sẽ nói cho ông hay!

– Dạ, lạy đức Thế Tôn! Con xin chú ý nghe!

– Xá Lợi Phất! Đời quá khứ cách đây tính theo số A Tăng Kỳ có đến vô lượng, thuở đó có một ông vua nước lớn cai trị tám vạn bốn ngàn nước nhỏ, tám mươi ức tụ lạc, tại Châu Diêm Phù Đề, vua ngự ở thành Bà Lâu Thi Xá. Trong thành ấy có một người Bà La Môn, có trí thông sáng, nhà vua tôn kính như một ông thầy, tám vạn bốn ngàn ông vua nước nhỏ đều mến mộ khâm phục, bốn phương hiến tặng, và thường sai Sứ sang thăm viếng, nói tóm lại cũng như bầy tôi thờ vua không khác. Nhà giàu ngang với nước, nhưng không có con để nối nghiệp nên lúc nào ông cũng buồn! Không biết nơi đâu có thể cầu nguyện được. Bấy giờ ông lên miếu thờ Phạm Thiên “Thiên Đế”, Tứ Vương Ma Hê Thu La và tất cả chư Thiên khác, cầu đạo ròng rã mười hai năm, do sự cầu nguyện thành kính ấy, nên bà vợ lớn của ông có thai. Ông cho gọi người về xem trai hay gái; có một thiếu phụ đến xem nói: – Bà có mang con trai. Ông mừng thầm! Giao cho các cô con gái hầu hạ bà một cách chăm chỉ cẩn thận, không được làm trái ý.

Đủ tháng sinh được cậu con trai mình sắc vàng, tóc xanh mượt, trán cao, mũi thẳng, tai dày, mắt sáng, mồm tươi rộng, nhân tướng đầy đủ, ông vui mừng quá! Cho mời thầy về coi tướng.

Tướng Sư xem xong nói:

– Cậu đầy đủ phúc đức, thiên hạ chưa từng có, sau này có thể làm đến Quốc Sư!

Nghe Tướng Sư nói, ông rất hoan tâm, và nhờ đặt tên giùm. Lệ đặt tên bao giờ cũng y vào hai điều kiện:

1. – Tinh tú.

2. – Biến điềm lạ.

Tướng Sư hỏi: – Thưa ông! Trong khi bà có mang cậu bé này, thì có điềm gì lạ không?

– Thưa Ngài! Bà ác nghiệp lắm, ít lòng nhân, lại không chăm tu phước tuệ gì, từ khi có thai cháu, thì tâm tính cải đổi, thương xót kẻ nguy nạn, hay giúp đỡ kẻ nghèo đói, chăm bố thí, không tham lam tích cóp như xưa!

Tướng Sư hoan hỷ nói:

– Đó là trí lý của cậu con trai sử nhiên như vậy. Tôi xin đặt tên là Ma Ha Sà Ca Phàn (Tàu dịch: Đại Thí).

Sau khi lớn tuổi, ông bà quý lắm! Làm riêng cho một lâu đài chia làm ba cung, để tùy theo thời tiếc nóng lạnh của một năm: mùa đông ở cung ấm áp, mùa hạ ở cung mát, mùa xuân mùa thu ở cung giữa, sự nóng lạnh thuần hòa, cắt đặt những thiếu nữ hầu hạ, đêm ngày cho cậu vui chơi! Cậu có tính ham học, lại sẵn có trí thông minh, đọc thuộc mười tám bộ kinh của thế tục, học các kỹ thuật đều tinh xảo. Một hôm cậu thưa với ông rằng:

– Thưa cha! Con ở trong cung điện này đã lâu, xin cho con du ngoạn ngoài thôn quê, để xem dân chúng làm ăn.

– Ừ! Con đi chơi, cha cho con đi.

Ông sai người sửa sang đừơng sá, vảy nước thơm, dựng cờ treo phan đốt hương, một con voi trắng lớn, trên lưng đặt bành bằng thất bảo phủ vải gấm, teo chuông trang nghiêm cho cậu cỡi. Những người đi trước gảy các đồ âm nhạc, đánh trống thổi kèm; đi sau có hàng ngàn người cỡi voi cỡi ngựa theo cậu đi, trên một con đường lớn bằng phẳng, bầu trời mát mẻ, bóng tinh quang chiếu thành năm sắc, không khác một ông Chuyển Luân Vương giáng thế. Nhân dân nô nức ra xem, nhìn không chán mắt, ai nấy đều khen rằng:

– Thực là hiếm có, oai phong vòi vọi, lẫm liệt như một ông trời Phạm Thiên!

Một lát gặp bọn khất nhi, áo quần tả tơi, chân đi thất thểu, cầm cái bát vỡ kêu xin một chút món ăn, hoặc tiền. Đại Thí hỏi:

– Các ngươi tại sao mà khổ cực như vậy?

– Thưa cậu! Chúng tôi không có cha mẹ, anh em, vợ con, nghèo khổ không có chỗ nương thân!

Cũng có người nói rằng: – Chúng tôi mắc bệnh liên miên, không làm ăn gì được, hết lối sinh sống!

Cũng có người nói rằng: – Chúng tội gặp lúc cơ nguy, gia đình phá tán, nợ nần nhiều quá hết lối làm ăn, phải hành khất để nuôi thân trốn nợ!

Đại Thí nghe họ nói xong, trong lòng chua xót, than lòng mà bước đi! Đi được vài dặm, thấy lũ đồ tể mổ giết súc sinh.

Đại Thí hỏi: – Chao ôi, các ông làm gì thế?

– Thưa cậu! Tổ Phụ chúng tôi chỉ làm nghề sát sinh, để nuôi sống gia đình, nay nếu bỏ nghề này thì hết lối!

Đại Thí than thở rồi bước đi. Đi một quãng thấy các người cày ruộng: những sá cày lật đất, các con giun, con dế, con vi trùng chui lên, lại bị những con ếch, con chẫu bắt ăn; lại thấy những con rắn bắt ếch, bắt chẫu ăn, tiếng kêu thảm thiết; lại thấy giống chim khổng tước bắt rắn tha lên cành cây ăn.

Đại Thí hỏi: – Đây là họ làm gì?

– Thưa cậu! Họ cày ruộng để trồng lúa, đến mùa được thóc ăn và nộp thuế cho nhà Vua.

Đại Thí nghe xong, thương chúng sinh, than thở trong lòng mà đi. Đi một quãng thấy những người đi săn, giăng lưới, đặt cạm, giật bẫy, để bắt cầm thú, thấy chúng bị sa lưới, quằn mình quại thể, dãy dụa hết sức, gào kêu! Sợ hãi! Trông rất đau lòng.

Đại Thí hỏi: – Các ông làm gì đó?

– Thưa cậu! Chúng tôi chỉ chuyên nghề đi săn bắn, nếu không làm việc này, thì cũng không có nghề gì sinh sống!

Đại Thí nghe nói vừa thương, vừa ngậm ngùi! Rồi bước đi. Đi được một lúc thấy một con sông lớn, trên những chiếc thuyền lênh đênh, các anh thuyền chài, tung lưới kéo lên được rất nhiều cá, đổ lên bờ, con dãy, con ngáp, ngổn ngang.

Đại Thí hỏi: – Các ông làm gì thế?

– Thưa cậu! Từ cha ông chúng tôi, đến chúng tôi không có nghề gì khác, chỉ có nghề bắt cá để sinh sống.

Đại Thí nghe nói, để lòng thương! Và thầm nghĩ rằng:

– Tất cả người dân vì thiếu thốn áo mặc cơm ăn, nên tạo những ác nghiệp sát hại chúng sinh, sau chết đọa xuống Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Bàng Sinh, từ chỗ mê tối lại sa vào chỗ mê tối hơn, thực đáng thương thay!

Tớiđây Đại Thí bảo với mọi người rằng:

– Thôi, các ông cho tôi về an nghỉ.

Vì thương đời lầm lạc, tạo áo nghiệp, nên Đại Thí không lúc nào được vui! Tìm cách để cứu tế chúng sinh khỏi sự đói thiếu về thể xác lẫn tinh thần, rồi lên thưa với cha rằng:

– Thưa cha, vừa rồi con đi về các miền thôn quê, thấy nhân dân vì sự ăn mặc, phải lao hình khổ trí sát hại muôn sinh để nuôi đời sống, lường gạt dối trá, lẫn nhau, tạo ác nghiệp ấy sau chết phải đọa vào ba đường ác, con rất thương họ! Vậy cho con một kho gạo để bố thí cho những kẻ nghèo đói.

– Tùy ý, của cha là của con, ý con muốn bố thí thì cha cũng vui lòng!

Được cha đồng ý, Đại Thí bá cáo cho nhân dân rằng:

– Tất cả nhân dân, ai thiếu thốn về cơm ăn áo mặc, tiền xài; xin lại nhà lấy, tùy theo ý muốn, tôi sẽ cấp giúp đầy đủ!

Quốc dân hay tin ông Đại Thí mở cuộc bố thí, tất cả những người nghèo khổ, bệnh tật, cô cùng, kéo nhau đến đông như hội; cũng có người ở xa từ trăm dặm, người hai, ba trăm ngàn dặm tới, có người từ ba ngàn, năm ngàn dặm tới; kẻ mạnh cõng người yếu, kẻ sáng dắt người mù, muốn cơm được cơm, muốn áo được áo, tất cả ai muốn gì cũng được toại ý.

Bố thí trong một thời gian, các kho ba phần đã hết một, người coi kho đến thưa với ông chủ rằng:

– Thưa ông, cậu Đại Thí ban phát cho dân các kho tàng ba phần đã hết một. Vua quan khách khứa đi lại còn đâu mà thết đãi! Ông nghĩ kỹ, kẻo hết rồi lại trách tôi không thưa trước!

Ông nghĩ như vầy: – Thà để kho không, chứ không làm trái ý con ta!

Bố thí trong một thời gian nữa thì ba phần đã hết hai. Người coi kho lại lên thưa với ông rằng:

– Thưa ông chủ! Kho tàng ba phần đã hết hai, nếu ông không đình chỉ việc bố thí lại, thì không còn cái gì mà ăn dùng nữa!

Ông nói: – Ta nặng tình yêu con quí của ta, nên không muốn làm trái ý. Vậy anh có phương tiện gì, giả thác ra một cách khác, nếu kẻ lại xin làm cho họ ít đến nữa may ra còn chút nào để dùng chăng!

Anh coi kho được ông cho phép, đóng luôn cửa lại rồi đi nơi khác.

Vì kho đóng nên những người xin đều đến chỗ cậu Đại Thí; cậu dẫn họ đến kho, thì anh coi kho đi vắng. Cậu sai người tìm mãi mới thấy, anh về mở kho cho, nhưng cũng không cho được bao nhiêu.

Đại Thí thầm nghĩ như vầy:

– Việc đình chỉ bố thí không phải kẻ giữ kho dám tự quyền, chắc là thừa lệnh của cha ta. Song phép làm con cũng không nên làm khánh kiệt kho tàng của cha mẹ, vả trong kho bây giờ cũng không còn được bao nhiêu nữa. Vậy ta phải làm thế nào, có tiền của cấp tế cho nhân dân, được no nê sung sướng! Mới mãn bổn nguyện bố thí của ta.

Khi đó Đại Thí hỏi mọi người rằng:

– Ở thế gian này, làm nghề nghiệp gì được nhiều tiền của?

Cáo người mách rằng:

– Thưa cậu! Bây giờ chỉ trồng cấy năm giống thóc thì được nhiều của.

Có người nói rằng:

– Nuôi thú vật bán có thể được nhiều tiền.

Cũng có người nói:

– Nếu không sợ tai nạn nguy hiểm, đi xa buôn bán có thể được nhiều tiền của.

Lại có người giới thiệu rằng:

– Thưa cậu! Mọi kế nói trên đều không kết quả được bao nhiêu, muốn cho tất cả chúng sinh trên cõi Diêm Phù Đề, được đầy đủ cơm áo mặc, chỉ vào biển tìm châu bảo là một diệu kế hơn hết!

Đại Thí nói: – Trồng cây, nuôi thú, đi xa buôn bán, không được lợi mấy, có lẽ vào biển tìm ngọc châu là một diệu kế hơn. Vậy tôi quyết định đi tìm ngọc châu.

Nói xong lên thưa với cha mẹ rằng:

– Thưa cha mẹ! Con xin ra biển tìm ngọc châu về cấp tế cho dân, xin cha mẹ vui lòng?

Ông bà lo quá, nói rằng:

– Con ơi! Những người ra biển là những người nghèo khổ vô kế sinh sống, không hòng đời sống của mình. Con nghèo khổ chi mà vào biển? Để cha mẹ lo sợ thân mạng của con! Muốn bố thí, thì trong kho còn bao nhiêu con cứ việc bố thí. Đi biển có nhiều tai nạn, sóng to, gió lớn, Cá Ma Kiệt, Rồng Độc, Quỷ La Sát, núi, nước khó mà qua nổi! Con đem thân vào chỗ tai nạn ấy làm chi? Không thể đi được đâu, thôi đừng giở hơi nữa.

Đại Thí buồn quá! Tự nghĩ như vầy:

– Ta muốn gây một đại nghiệp cho tương lai, mà tham tiếc thân sống thì sao thành?

Nghĩ xong, phục mình xuống trước cha mẹ mà thưa rằng:

– Kính lạy Song thân! Nếu Song thân ngăn chí nguyện của con, không cho con đi biển tìm ngọc châu để cứu dân, thì con nằm ở đây không đứng lên nữa!

Ông bà nghe câu nói ấy, tâm can não nhiệt như lửa đốt! Cùng với mọi người khuyên bảo rằng:

– Đương biển xa xôi nhiều hiểm trở, đi nhiều về ít, con nên nghĩ đến cha mẹ cầu đảo thành kính, trong mười hai năm ở miếu thần tiên mới có con ngày nay. Bây giờ lớn khôn lại bỏ cha mẹ đi thì không nên! Dậy đi con, ăn uống để cha mẹ vui lòng!

Cậu một lòng thưa rằng:

– Cha mẹ cho con đi thì con dậy, không thì con không dậy!

Cậu nằm mãi đến sáu ngày không ăn uống, ông bà luôn luôn khuyên bảo, dỗ dành, nhưng cậu quyết định không dậy, chịu nhịn đói.

Ông bà lo sợ quá! Bàn với nhau rằng:

– Con ta trước sau khăng khăng một mực không hề thoái tâm. Thôi, ta cũng nhắm mắt cho đi, còn mong có ngày về, nếu nằm quá bảy ngày chết lại đây, thực là vô ích.

Bàn xong, ông bà đến đỡ cậu dậy, và nói rằng:

– Thôi, con dậy ăn cơm, rồi cha mẹ cho con đi.

Đại Thí mừng quá! Đứng dậy đi ăn cơm, ăn xong, viết bảng cáo thị rằng:

– Tôi đi ra biển tìm ngọc châu, ai muốn đi thì cùng đi, tôi xin cung cấp đầy đủ hành lý.

Bấy giờ có năm trăm người đồng ý theo cậu. Giữa hôm lên đường ra đi, cha mẹ, vua, quan, dân chúng, số ngàn muôn người đưa chân đem tặng lương thực và tiền bạc để ăn đường. Cuộc tiễn đưa này, rất vui vẻ! Mọi người đều cầu chúc: “Cậu đi được bình an mau trở về”.

Đi chừng vài ngày, tới một bãi cát rộng mênh mông, mọi người đều lên đó nghỉ, không may gặp bọn cướp đông quá, biết sức không chống nổi, nên Đại Thí đem tiền của lương thực cho họ hết rồi lại bắt đầu đi, đi tới một cái thành, gọi là thành Phóng Bát. Thành này có ông Trưởng Giả tên là Ca Tỳ Lệ dòng Bà La Môn, ông có cô con gái, mình sắc vàng, tóc xanh như ngọc lưu ly, xinh đẹp nhất thời, tám vạn bốn ngàn vương tử, ở các nước đến hỏi cô không ưng.

Đại Thí định đến vay tiền, đứng ngoài gõ cửa, cô thấy người gọi chạy ra, nhìn cậu, tự nhiên cảm động, vui mừng; vào nhà thưa với cha rằng:

– Thưa cha! Bên ngoài có người gõ cửa gọi, người đó chính là chồng con đấy!

Ông Ca Tỳ Lê mở cửa bước ra, thấy cậu tướng mạo oai nghi phi thường, mừng thầm hỏi rằng:

– Cậu tới đây có việc chi?

– Thưa Trưởng giả! Tôi vì lòng thương dân đói khát, đi ra biển tìm ngọc châu về phân cấp cho họ, không may đi nữa đường gặp bọn cướp lấy hết lương thực, muốn phiền Trưởng Giả cho vay ba ngàn lạng vàng, lúc trở về xin trả!

Ông vui vẻ nói:

– Mời cậu vào chơi, không khó, tôi xin cho cậu mượn ba ngàn hoặc mười ngàn, nhà tôi cũng sẵn.

Ông vào kho lấy vàng, dắt con gái đi theo, vừa cười vừa nói:

– Tôi xin tặng số vàng này cho cậu; đây là con gái tôi, nhiều Vương Tử đến hỏi nhưng tôi không gả. Hôm nay gặp cậu tôi rất vui lòng! Con gái tôi nó đồng ý kết duyên với cậu. Vậy cậu có nhận lời nói đây? Xin cho biết.

– Dạ! Thưa Trưởng Giả, hiện nay tôi đi ra biển, tai nạn nguy hiểm nhiều, có ngày đi không biết có ngày về, giờ nhận lời với ông, một ngày gần đây bị tai nạn, băng mình trong biển cả! Sai lời hẹn thì làm thế nào?

– Không sao! Nếu cậu được tốt lành trở về, thì xin nhận lời hứa!

Ông vui vẻ đưa cho cậu ba ngàn lạng vàng, và rất nhiều các thực phẩm khác. Cậu cảm ơn ông, rồi từ biệt lên đường đi.

Đưa vàng về, cậu bảo các người theo, đi mua thuyền tốt, dày bảy lần ván, để chống đỡ với sóng gió.

Mua thuyền xong, cột bằng bảy cái dây.

Đại Thí lắc chuông, lớn tiếng nói:

– Các bạn lắng tai nghe! Chú ý! Chú ý, đi biển nhiều nguy hiểm, nào hắc phong, quỷ La Sát, ác phong, độc khí, thuỷ hắc, núi đá, cá Ma Kiệt, tai nạn rất nhiều. Các bạn đi cùng tôi! Tới đây, ai muốn về, thì ở lại, kẻo đến khi gặp tai nạn, lúc ấy dầu có hối cũng không được; còn ai vững lòng bền chí, không tiếc thân mạng, vợ con, anh em, cha mẹ thì đi. Trái lại, nếu được an toàn trở về, tiền của con cháu bảy đời ăn không hết.

Nói xong, cắt một dây; cứ như thế, mỗi ngày tuyên bố một lần, lại cắt một dây; bảy ngày cắt hết bảy dây, thuyền bắt đầu đi, trương buồm thuận gió, thuyền chạy như bay.

Qua một thời gian khá lâu, mới đến chỗ có nhiều ngọc châu và vàng bạc.

Đại Thí là người tinh anh, học rộng, biết rành các thứ ngọc châu: thứ nặng, thứ nhẹ, hạng quý, hạng thường, hình sắc tốt hay xấu, để chỉ bảo cho mọi người lấy, và dặn lấy vừa phải đừng tham, sợ nặng bị đắm thuyền; nếu lấy ít thì không bõ công đi.

Anh em chăm chú lấy xong, khi sắp ra về, Đại Thí không muốn lên thuyền, anh em hỏi:

– Thưa cậu! Các thứ ngọc châu, bảo vật, chúng tôi lấy cho xuống thuyền đã đầy đủ, mời cậu lên thuyền đi về!

– Các bạn hãy về trước! Giờ đây tôi muốn đến điện vua Long Vương, để xin ngọc Như Ý, thì có thể bố thí cho chúng sinh toàn cõi Diêm Phù Đề được. Tôi cương quyết đi, nếu không xin được tôi quyết không về!

– Thưa cậu! Chúng tôi nhờ sự mạo hiểm và cương quyết của cậu mà ra tới đây, lấy được nhiều bảo vật, châu ngọc, mong được hoàn toàn trở về, bây giờ cậu lại bỏ rơi lũ chúng tôi mà đi một mình, chúng tôi rất không bằng lòng! Yêu cầu cậu trở về cùng chúng tôi.

– Thôi, các bạn cứ an tâm, tôi sẽ cầu nguyện cho các bạn được an lành trở về nước nhà, sung sướng cùng cha mẹ vợ con, riêng tôi các bạn không lo!

Toàn thể anh em ai cũng buồn! Họ đều chắp tay, cầu chúc cậu đi được tốt lành, và xin giã biệt trở về.

Buồm đã trương, những chiếc thuyền từ từ quay mũi. Anh em đứng trên thuyền nhìn cậu mà rớt nước mắt!

Thuyền đã chạy xa xa, bóng mờ mờ ngoài biển. Đại Thí dâng hương lễ mười phương chư Phật lập thề rằng:

– Kính lạy thập phương Đại Giác từ bi chứng giám! Con không quản đường xa dặm thẳm, nguy hiểm khó khăn, vào biển tìm châu để cứu tế quần sinh, qua khỏi nạn đói khát, khốn khổ! Nguyện đem công đức này, cầu thành Phật, xin dốc một lòng thành kính, cho lời thề nguyện của con được thành tựu, và những người này được an lành, về không gặp các tai nạn.

Đại Thí ra đi ngày thứ nhất, nước ngập đến đầu gối; đi trong bảy ngày nước sâu đến tận mông; đi bảy ngày nước đến ngang lưng; bảy ngày nữa nước ngập tới cổ; bơi bảy ngày nữa tới một quả núi. Đại Thí bẻ hai cành cây làm gậy chống, để leo núi; leo bảy ngày tới ngọn, đi bảy ngày trên đỉnh núi ấy, rồi lại trở xuống; suốt bảy ngày đến chân núi, tới một ven nước, dưới nước có hoa sen sắc vàng, lại có các con rắn độc nằm trên hoa, hoặc trên ngó.

Đại Thí thấy vậy, ngồi kết vòng tròn ngay ngắn, hệ tâm nhiếp niệm, nhập phép quán từ bi tam muội. Nghĩ tới những con rắn này, do kiếp trước tạo nghiệp sân nộ ghét ghen, nên đọa sinh ở nơi đây, chịu thân hình độc ác xấu xa. Bởi lòng từ bi của Đại Thí giao cảm, nên những con rắn đó, được hết nọc đọc.

Đại Thí đứng dậy đi trên những bông hoa ấy suốt bảy ngày thoát nạn rắn độc, nhìn trước mặt xa xa, thấy những con quỷ La Sát, vì chúng ngửi thấy hơi người mà tìm lại. Thấy thế, Đại Thí nhiếp tâm niệm nhập phép Từ Bi quán; nhờ phép quán ấy, nên các con quỷ tự phát tâm cung kính, vui vẻ tới gần hỏi:

– Bồ tát ở đâu tới đây?

– Thưa Ngài, tôi đi tìm ngọc Như Ý!

Quỷ vui vẻ, nghĩ như vầy:

– Người này có phúc đức đi đến chỗ vua Long Vương, nhưng hãy còn xa, làm sao đi nổi? Vậy chúng ta hãy đưa giúp, qua chỗ nguy hiểm này.

Nghĩ rồi, chúng dùng lực thần của quỷ, đưa Đại Thí qua bốn trăm do tuần, rồi trở về.

Tới đây, Đại Thí ngắm thẳng đường đi, thấy một cái thành lớn bằng bạc, sáng quắc như mặt trời. Đại Thí biết đích thành này của Long Vương, vui vẻ đi thẳng vào, thấy bên ngoài thành có bảy lần hào nhiễu quanh, trong hào thuần rắn độc coi rất ghê sợ!

Đại Thí tự nghĩ: – Những con rắn này lúc tiền sinh, ác tâm nộ hại nhiều, nên nay phải đọa làm rắn, chịu thân hình cực ác.

Đem lòng từ bi thương xót, thì các con rắn ấy tự nhiên lẩn mất. Đại Thí đi thẳng vào thành. Ở cổng thành thấy có hai con rồn cuộn khúc, hai đầu giao nhau, dáng như cánh cửa. Thấy Đại Thí vào, chúng ngóc đầu nhìn. Đại Thí nhập Từ Bi quán; Rồng cúi đầu không dám ngó nữa. Đại Thí bước lên đầu Rồng đi vào.

Giữa lúc vua Long Vương đương ngồi ở điện Thất Bảo, nhìn thấy có người vào lấy làm ngạc nhiên, thầm nghĩ:

– Thành của ta có bảy lần hào lũy, trong hào có rất nhiều Rắn độc, ngoài ra lại còn có các loài độc Long, Quỷ Dạ Xoa; người này làm sao vào được? Chắc họ có đức lớn!

Vua Long Vương phát khởi lòng cung kính, đón chào hỏi han, mời ngồi giường thất bảo, đem các món ăn ngon ra thết đãi. Ăn xong, vua Long Vương hỏi rằng:

– Ngài tới đây có chuyện gì cần thiết không?

– Thưa Long Vương! Nhân dân trên cõi Diêm Phù Đề, nghèo đói đau khổ! Do cơm ăn, áo mặc mà tạo các nghiệp ác, như: sát sanh, trộm cắp, nói dối, lừa bịp lẫn nhau, bởi thế chết đọa vào ba ngả ác. Tôi vì lòng thương! Muốn cứu chúng sinh, nên không quản đường xa dặm thẳm tới đây yết kiến Đại Vương để xin viên ngọc Như Ý về cứu giúp dân chúng, mong Đại Vương mở lượng từ bi bố thí cho!

– Dạ, ngọc Như Ý là một vật quý nhất, Ngài tới đây cũng là một công phu mạo hiểm quên thân; tôi đâu dám từ chối, nhưng xin Ngài lưu tâm ở lại đây một tháng; nhận chút cúng dàng mọn của tôi, và thuyết Pháp cho tôi nghe, thì tôi xin biếu Ngài!

– Dạ, quý hóa! Đại Vương có lòng cố lưu, và muốn nghe thuyết Pháp, tôi xin ở nán lại, không dám từ chối.

Vua Long Vương ngày ngày cúng dàng rất trịnh trọng, dâng đủ các món ngoan lạ dưới Long cung. Trong giờ ăn, các nhạc sĩ, vũ nữ, múa hát cúng dàng, gảy những cung đàn rất tuyệt! Ca những bài hát cực hay!

Đại Thí dùng biện tài vô ngại, giảng thuyết pháp Tứ Niệm Xứ cho Vua nghe. Hết một tháng, từ biệt lên đường. Vua Long Vương lấy ngọc Như Ý trong búi tóc ra tặng, và nói rằng:

– Đại Thí có lòng từ bi rộng lớn, tâm chí mãnh liệt, quyết định thành Phật. Sau khi Ngài được thành Phật. Tôi xin làm một để tử trí tuệ!

– Quý hóa! Thưa Long Vương, ngọc này có năng lực thế nào?

– Dạ! Thưa Đại Thí, ngọc này có năng lực làm mưa trong hai ngàn do tuần vuông bốn mặt; nước mưa ấy hóa ra những món chúng sinh cần dùng trong đời sống.

Đại Thí hoan hỷ đỡ lấy ngọc, rồi thầm nghĩ:

– Hạt ngọc này tuy quý thực, nhưng chỉ có hạn định, chưa cứu tế cho chúng sinh được nhiều, như ý nguyện của ta đã định.

Vua Long Vương và quần thần, đưa chân ra ngoài cổng thành; Đại Thí từ tạ bước lên đường. Đi được ít lâu, tới một cái thành, thuần bằng lưu ly xanh, ngoài thành có bảy lần hào vây xung quanh, trong hào có rất nhiều rắn độc.

Đại Thí thầm nghĩ như vầy:

– Những con rắn này, lúc tiền sinh tạo nhiều sân si tật đố, nên phải chịu thân hình xấu ác như vậy.

Nghĩ xong, ngồi ngay nghiêm nhập phép Từ Bi Quán, vì thương chúng đau khổ. Lòng từ bi lan cảm, làm cho bạt hết tâm độc của chúng.

Đại Thí đứng dậy, bước lên đầu những con rắn ấy, đi thẳng vào cổng thành; thấy hai con rồng, mình cuộn quanh thành, hai đầu giao nhau ở trước cửa, cũng như cách canh gác. Rồng thấy người, ngóc đầu, nháo mắt, nhìn một cách ác liệt.

Đại Thí liền nhập quán Đại Bi; Từ Tâm thông cảm. Rồng gục đầu, biểu lộ một vẻ hiền lành. Đại Thí tiến bước vào trong.

Vua Long Vương đương ngồi ở điện Thất Bảo, nhìn thấy có người vào, thầm nghĩ như vầy:

– Quái sao? Ngài thành có bảy lần hào, nào những Rắn độc, Rồng độc, quỷ Dạ Xoa, khó đi như thế, mà người này vào đây được? Chắc họ có đức lớn, không phải người thường!

Nghĩ xong, đứng lên ra đón chào hỏi han, rất kính cẩn, mời lên bảo điện ngồi tòa thất bảo, đem các món ngon quý ra thết đãi. Ăn xong, niềm nở nói chuyện, và hỏi:

Ngài ở đâu đến đây, có chuyện gì cần thiết không?

– Thưa Đại Vương! Tôi ở Châu Diêm Phù Đề, xuống đây để xin ngài hạt ngọc Như Ý!

– Thưa Ngài, ngọc Như Ý hiếm có lắm! Nếu Ngài muốn dùng xin ở lại đây hai tháng, giảng thuyết hạnh Bồ Tát và nhậm chút cúng dàng của chúng tôi.

– Dạ, quý hóa! Nếu Đại Vương có tâm mến mộ vô thượng Pháp Bảo của chư Phật, việc đó tôi xin thành kính, giảng giải.

Vua Long Vương sai bày tòa cao, mỗi ngày hai thời thỉnh thuyết Pháp, và sửa trai nghi cúng dàng rất trịnh trọng.

Đại Thí dùng vô ngại biện tài, phân biệt nói về “Tứ Thần Túc”, hết hai tháng từ biệt ra về.

Vua Long Vương lấy ngọc Như Ý ra tặng và phát nguyện rằng:

– Đại Thí Từ Tâm phổ tế quần sinh, quảng đại vô biên, quyết được thành Phật, khi đó tôi nguyện làm một thần túc đệ tử.

– Dạ, hay lắm! Đại Vương nguyện như vậy, sẽ được thành tựu! Còn viên ngọc này có năng lực thế nào?

– Thưa Đại Thí! Viên ngọc này có năng lực làm mưa tất cả các món ăn dùng của chúng sinh, quy vuông bốn ngàn do tuần?

Đại Thí hoan hỷ, nhận lấy viên ngọc, rồi tự nghĩ rằng:

– Hòn ngọc này tuy cũng khá nhưng chưa xứng ý của ta đã định!

Vua Long Vương và quần thần tiễn chân ra ngoài cổng thành, chờ đi xa mới trở về.

Đại Thí đi chưa được bao lâu, thấy một cái thành bằng vàng, rất mỹ quan, sáng rực một trăm dặm, tới gần thấy bảy lần hào vây quanh, trong hào có rất nhiều rắn độc. Đại Thí thầm nghĩ:

– Những con rắn này, do đời trước đây tâm ác độc, ghen ghét nộ hại, nên phải chịu thân độc ác như vậy!

Nghĩ xong nhập Từ Tâm ái niệm, đánh bạt ác tâm rắn độc, chúng nằm rạp xuống, Đại Thí bước lên trên mà đi, tới cổng, thấy hai con Rồng cuộn khúc quanh thành hai đầu giao nhau, gác hai bên cổng, thấy người, chúng ngóc cổ trố mắt nhìn một các ác nghiệt.

Đại Thí liền nhập quán Từ Bi; Rồng cúi đầu, Ngài bước vào trong cổng.

Lúc đó vua Long Vương đương ngồi ở bảo điện thấy người vào, ngạc nhiên, thầm nghĩ:

– Ngoài thành có bảy lần hào vây quanh, nào Rắn độc, Rồng độc, quỷ Dạ Xoa, khó khăn như thế mà sao người này vào được? Chắc họ có đức lớn!

Nghĩ thế rồi khởi lòng tôn trọng kính cẩn, bước ra đón tiếp hỏi han, rồi mời Ngài vào điện, ngồi tòa thất bảo, đem các món ăn ngon quý dưới Long Cung thết đãi rất trịnh trọng. Ăn xong vua hỏi:

– Ngài ở đâu tới đây? Và có cần dùng việc gì không?

– Dạ, thưa Đại Vương! Chúng sinh trên cõi Diêm Phù Đề bạc đức cùng khổ; làm ăn lao lực, đến nỗi sát hại lẫn nhau, cũng chỉ vì miếng cơm manh áo, hoàn toàn làm mười điều ác, sau khi chết đọa vào ba đường sá xa xôi, bao lần nguy hiểm! Nghe biết Đại Vương có hạt ngọc Như Ý, có thể làm cho chúng sinh hết đau khổ, vì thế tới đây xin Ngài, để cứu tế cho nhân dân.

– Dạ, thưa Đại Thí! Ngọc Như Ý là một vật quý nhất dưới Hải Tạng, nếu Ngài muốn dùng xin ở lại đây bốn tháng nhận chút cúng dàng, và giảng giải cho chúng tôi được biết đạo lý.

– Dạ, như vậy hay lắm! Nếu Đại Vương muốn nghe giảng thuyết về Chánh Pháp của Như Lai, tôi xin thành thực cúng dàng Vô Thượng Pháp Bảo!

Vua Long Vương hoan hỷ! Ngày ngày dâng cúng các món ăn ngon quý dưới Long cung, lại bắt các nhạc sĩ mỗi ngày hai thời tấu nhạc cúng dàng.

Đại Thí dùng biện tài vô ngại giảng thuyết chân lý cao siêu.

Nhà vua chăm chỉ nghe pháp, chiều sớm ban hôm không để mất thời tiết. Các hàng Long và quỷ Dạ Xoa, đến xin hầu hạ, lúc tiến, khi lui, tự đặt ra thời giờ phụng sự, trong bốn tháng rất nghiêm kính và hợp phép tắc.

Hết kỳ bốn tháng từ giã ra về. Vua Long Vương cởi búi tóc lấy hạt ngọc Như Ý cúng dàng và thề nguyện rằng:

– Đại Thí hoằng thệ vô biên, Từ Tâm cao cả! Vì thương quần sinh, không quản khó nhọc, sau này quyết được thành Phật, tôi nguyện làm Thị Giả một đệ tử tổng trì!

– Quý hóa! Đại nguyện của Ngài sẽ được thành tựu mau chóng, còn năng lực của hòn ngọc này như thế nào?

– Dạ, thưa Đại Thí! Hạt ngọc này có năng lực, mưa thất bảo xuống tám ngàn do tuần quy vuông bốn mặt.

Đại Thí hoan hỷ nhận ngọc rồi tự nghĩ rằng:

– Đất Diêm Phù Đề này rộng bảy ngàn do tuần, công năng hạt ngọc này tám ngàn do tuần, như vậy mới đạt được nguyện vọng của ta!

Tất cả ba hạt ngọc đem gói vào góc vạt áo. Cảm tạ Long Vương lên đường. Vua và quần thần đưa chân ra khỏi cổng thành.

Đại Thí đi khỏi thành xa xa, để hạt ngọc trên bàn tay khấn rằng:

– Nếu thực hạt ngọc Như Ý, xin cho tôi bay được lên hư không!

Khấn xong, rướn mình bay lên hư không tựa như chim cắt. Một lát bay qua biển, tới bãi, xuống nghỉ.

Tới đây, Đại Thí nằm ngủ trên bải cát; bãi này có mấy con Rồng biết rằng Đại Thí đi xin ngọc của vua Long Vương về, chúng khởi tâm tham; thừa cơ Đại Thí ngủ cởi trộm, lặn xuống bể mất.

Đại Thí thấy động, mở choàng mắt ra, nhìn không thấy người, mất ba viên ngọc, nghĩ như vầy:

– Ở đây làm gì có người, mất ba viên ngọc này, chỉ có những con Rồng lấy của ta thôi! Ta mất bao công trình lao khổ mới được, đem về cứu chúng sinh cho mãn nguyện bố thí của ta; lũ bây lấy của ta, ta thề nếu không lấy lại được, quyết định không về, ta sẽ tát cho hết nước để bắt lũ bay, đầu chết cũng cam tâm, chứ chẳng chịu về không!

Vừa đi vừa nói trên bãi biển, bắt được cái mai rừa.

Ông Thần Biển hiện lên nói rằng:

– Biển này sâu ba trăm ba mươi sáu muôn dặm, dầu cho tất cả toàn cõi Diêm Phù Đề tát cũng không thể cạn nổi, huống một mình ông tát gì được?

Đáp: – Ông nên biết: ai cương quyết làm việc gì, thì việc ấy sẽ thành công. Tôi đi tìm hạt ngọc Như Ý, để giúp ích cho nhân loại, khó đến như thế, mà tôi cương quyết không lui chí hướng, để cầu thành Phật, thì việc tát bể đã lấy gì khó hơn.

Khi đó có một người ở cõi Trời Tịnh Cư, thấy Đại Thí nhất thân nhất ý với bao công trình khó nhọc, để cứu tế chúng sinh, bị Rồng ăn cắp ngọc, ông gọi một số đông người ẩn hình đến giúp việc tát biển.

Cứ mỗi khi Đại Thí múc nước, thì các ông ấy lấy áo cõi Trời, nhúng xuống biển, rồi lại đem áo vắt nước đi nơi khác. Cứ mỗi lần Đại Thí múc nước như vậy, thì nước biển cạn đi bốn mươi dặm; hai lần múc, cạn tám mươi dặm; ba lần múc cạn một trăm hai mươi dặm.

Thấy cạn nước nhiều quá, mấy con Rồng ăn cắp sợ hãi! Lên tận nơi nói rằng:

– Thôi! Thôi! Đại Thí đừng múc nước nữa! Đại Thí dùng hạt ngọc này để làm gì?

– Dùng để cứu cấp cho tất cả chúng sinh, Châu Diêm Phù Đề!

– Theo như lời Đại Thí nói; thì chúng tôi ở trong biển này nhiều lắm, sao Ngài không cho chúng tôi, lại lấy đi?

– Trong biển này tuy có chúng sinh, nhưng không bị đau khổ như chúng sinh Châu Diêm Phù Đề, vì miếng ăn manh mặc mà sát hại lẫn nhau, lừa bịp, dối trá lẫn nhau, tạo đủ mười điều ác, chết đọa xuống tam đồ ác đạo, ta muốn cho họ hiểu được Pháp ấy, nên xuống đây xin ngọc, trước cho họ ăn mặc đầy đủ, sau cho họ tu theo mười điều lành (Thập Thiện).

Rồng nghe xong, đem ba hạt ngọc Như Ý trả lại.

Khi đó ông Thần Biển thấy Ngài tinh tiến cứng rắn như vậy, đối trước Ngài lập thệ nguyện rằng:

– Đại Thí tinh tiến như thế, quyết định được thành Phật, khi đó tôi nguyện làm một tinh tiến đệ tử!

Nhận hạt châu rồi bay lên hư không, một lát gặp các người cùng đi với mình, đáp xuống. Các người đó nhìn thấy Đại Thí vừa ngạc nhiên vừa vui mừng! Hỏi rằng:

– Cậu ở đâu tới đây? Thật là vô cùng sung sướng, hôm nay lại gặp được ông bạn chí thân.

Nói xong tay bắt mặt mừng, cùng nhau về tới nước Phóng Bát.

Ông Ca Tỳ Lê được tin Đại Thí ra biển tốt lành trở về, vui vẻ ra đón chào hỏi han niềm nở, rồi mời tất cả về đãi ăn.

Ăn xong nói chuyện những công việc hành lộ vừa qua, rất là vui vẻ! Đại Thí đưa ngọc Như Ý chỉ vào các kho tàng, thì những kho tàng nhà ông đều đầy dẫy vàng bạc ngọc ngà, trân bảo. Mọi người đều tắc lưỡi khen lạ!

Ông Ca Tỳ Lê trang điểm cho con gái đẹp đẽ, trước rửa tay, sau dắt con gái giao cho Đại Thí!

Khi ra về, ông cho năm trăm người kỹ nữ có đủ tài năng, và năm trăm bạch tượng theo hầu con gái.

Đại Thí giao cho các bạn cỡi voi lên đường về nước nhà; hôm ấy cuộc tiễn chân rất là náo nhiệt! Rất vui vẻ! Tiếng hay đồn khắp muôn phương.

Từ khi Đại Thí đi, cha mẹ ở nhà, quá thương, khóc nhớ! Đêm ngày sầu khổ! Đến nỗi lòa cả đôi mắt.

Đại Thí ra lễ cha mẹ, và hỏi han sức khỏe, cùng các công việc nhà.

Ông bà mừng quá! Vì lòa không nhìn thấy con, lấy tay xoa đầu vuốt mặt một cách nồng nhiệt, nói rằng:

– Con nỡ bỏ cha mẹ đi xa xôi từ bấy đến nay, để cha mẹ ở nhà thương nhớ. Vậy con vào biển được những bảo vật gì?

– Dạ, thưa cha! Con xin vua Long Vương được hạt ngọc Như Ý, cha cầm thử xem có quý không?

Ông đỡ lấy rồi nói rằng:

– Hòn đá này trong kho của nhà ta, nào có thiếu chi; thế mà con liều thân hoại thể, trải bao tân khổ nơi biển cả với ba đào hiểm trở, lấy về đây làm gì?

Đại Thí cầm hạt châu chỉ vào mắt ông bà, tự nhiên cặp mắt trông sáng hơn xưa, cũng như một cơn gió thổi tan mây khói, bóng bình minh sáng giữa không gian. Ông bà được cặp mắt sáng tinh, cảm niệm lực oai thần của hạt ngọc châu vô biên công đức! Rồi nói:

– Quý hóa! Con tuy chịu đau khổ nhưng cũng không luống cống.

Đại Thí lại dâng hạt châu lên nguyện rằng:

– Nguyện xin tòa ngồi của cha mẹ tôi biến thành tòa Thất Bảo vào có tán Thất Bảo che trên!

Nguyện xong liền được như ý ngay.

Lại nguyện rằng: – Nguyện cho kho tàng của cha mẹ tôi, và vua quan, dân chúng đầy chật vàng bạc, của báu!

Nguyện xong, tất cả toàn quốc từ vua chí dân, nhà nào cũng có rất nhiều vàng, bạc, ngọc, ngà của cải.

Thấy thế ai cũng ngạc nhiên và vui mừng!

Sau thời gian này, Đại Thí sai người cỡi voi đi tám ngàn dặm báo cáo cho toàn thể quốc dân biết rằng:

– Cậu Đại Thí ra biển được tốt lành trở về, sau bảy ngày nữa, ngọc Như Ý sẽ mưa xuống tất cả áo mặc, thức ăn uống, tuỳ theo ai muốn dùng gì cũng được như ý.

Nhưng nhân dân trai giới thanh tịnh và thành kính mới được hưởng phúc vô biên ấy!

Đến ngày thứ bảy, Đại Thí tắm gội sạch sẽ, mặc áo mới; rồi đi đến một khu đất bằng phẳng cao rộng, để hạt ngọc Như Ý trên đầu ngọn phướn cao, tay cầm lư hương nguyện rằng:

– Tất cả chúng sinh trong cõi Diêm Phù Đề bần cùng tân khổ, tôi muốn cứu họ khỏi sự thiếu thốn, nếu thực là ngọc Như Ý, thì xin lần lượt, mưa xuống những món cần về đời sống của chúng sinh!

Lời cầu nguyện vừa xong, bốn phương mây kéo râm mát, một làn gió thổi mạnh làm tiêu tan tất cả những vật nhơ bẩn trên mặt đất, sau mưa qua một lượt cho sạch bụi, rồi bay xuống các món ăn ngon lành, tiếp tục năm thứ thóc rơi đầy mặt đất, quần áo, lụa vải, vàng bạc khắp nhân gian đầy dẫy.

Từ đây toàn cõi Diêm Phù Đề, nhà nào cũng đầy kho vàng bạc, lưu ly, kim cương, thức ăn, áo mặc thừa thãi.

Vì nhiều quá, nên bấy giờ họ coi vàng bạc, kim cương như đất đá, vô giá trị.

Đại Thí thấy dân đã đầy đủ các nguyện vọng, bèn sai người đi báo cáo cho toàn cõi Diêm Phù Đề biết rằng:

– Tất cả dân chúng trước đây, bị thiếu thốn về áo mặc thức ăn uống, châu bảo, vì thế sát hại lẫn nhau, thấy lợi quên nghĩa, không e dè tội phúc, chết đọa vào tam đồ ác đạo, cũng như người từ chỗ tối, lại đi vô chỗ tối thêm, đày đọa tội khổ nhiều kiếp lâu dài. Tôi thường thương xót không người cứu tế, vì thế mà tôi quên mình dấn thân nơi biển cả, trải bao sự khó khăn gian hiểm lấy được viện ngọc Như Ý, về cung cấp cho toàn thể quốc dân đầy đủ sung sướng! Giờ đây tôi mong tất cả nhân dân, gắng sức tu mười điều lành, giữ gìn thân, miệng, ý và có nhân từ, hiếu thảo, chớ nên phóng túng mới mong thoát khỏi ba đường ác, đời đời được sinh Nhân Thiên, phú quý tự tại tu chứng đạo Bồ Đề.

Sau viết thư cho vua quan các nước khuyên dân tu theo pháp Thập Thiện, ngoài ra còn dùng nhiều phương tiện dìu dắt chúng sinh, cải tà quy chính, bỏ ác làm lành.

Thuở đó tất cả nhân dân, trên Châu Diêm Phù Đề, được nhờ ơn Đại Thí đầy đủ về vật chất, với tinh thần khuyên tu Thập Thiện. Họ nghĩ không biết lấy gì đền đáp ơn cao cả ấy; họ chỉ biết tuân theo lời giáo hóa tu Thập Thiện, và chuyên rèn luyện lòng từ bi khiêm nhượng, giữ gìn thân, miệng, ý thanh tịnh, để trả ơn ông Đại Thí. Sau khi mạng chung đều được sinh về các tầng Trời cả.

Nói tới đây Phật nhắc lại rằng:

– Xá Lợi Phất! Ông nên biết: ông Ni Câu Lư Đà thuở đó, chính là cha ta (Tinh Phạn), bà sinh Đại Thí đó, nay là mẹ của ta (Ma Gia), còn ông Đại Thí chính là thiền thân của ta; ông vua Long Vương ở thành bằng bạc, nay là ông Xá Lợi Phất; vua Long Vương ở thành lưu ly nay là ông Mục Kiền Liên; ông Long Vương ở thành bằng vàng, nay là ông A Nan; ông Thần Bể nay là ông Ly Việt.

Ông A Nan khi đó làm Long Vương thết đãi ta một cách khiêm kính, khéo biết thời nghi, ngày nay cũng muốn hầu ta, cho đú鮧 thời tiết; ông ưng được ba nguyện ấy, là tùy ý muốn của ông.

Tôi rất hoan hỷ, khi đức Phật nói lại thuở tiền sinh, nên tôi liền đứng dậy, tới trước quỳ thẳng, chắp tay bạch rằng:

– Kính lạy đức Thế Tôn! Con xin thân hành thọ làm Thị Giả, cúi xin Ngài từ bi hứa khả cho!

Tất cả mọi người lúc đó ai nấy đều cảm niệm ơn đức lớn lao của Phật đã quên mình vì chúng sinh, rồi ngồi ngay nghiệm suy xét pháp Tứ Đế. Sau có người đắc quả Tu Đà Hoàn, cho đến quả A La Hán, cũng có người đắc nhân Bích Chi Phật, cũng có người phát tâm cầu đạo Vô Thượng Bồ Đề, có người dự ngôi Bất Thoát, tất cả đều vui mừng tạ lễ mà lui.

 

 

 

Phẩm thứ bốn mươi: A NAN TỔNG TRÌ

Chính tôi được nghe Một thời đức Phật ở nước Xá Vệ, tại vườn Cấp Cô Độc, rặng cây của Thái Tử Kỳ Đà.

Vào thời bấy giờ tôi là một người thông mình nhất, có trí nhớ nhất, nên các vị Tỷ Khưu sanh lòng nghĩ như vầy:

– Không rõ ông A Nan đời quá khứ làm công đức gì? Mà nay được Tổng trì? Nghe Phật nói đến đâu là nhớ đến đó, không quên một câu!

Các vị nghĩ thế rồi lên bạch Phật rằng:

– Kính đức Thế Tôn! Ông A Nan đời trước có công đức gì? Kiếp này được vô lượng Tổng Trì như vậy? Cúi xin Ngài dạy bảo cho chúng con được rõ?

Phật: – Hay lắm! Các ông muốn biết phúc đức Tổng trì của ông A Nan, hãy để ý nghe cho kỹ! Đây cũng là một đời thuộc kiếp quá khứ, có một vị Tỷ Khưu nuôi một bác Sa Di, ngày ngày bắt bác ấy, phải chăm tụng kinh và đúng thời khóa. Nếu bác tụng niệm thời khóa đầy đủ thì ông vui! Nếu trễ, hoặc tụng thiếu sót, không đủ thời khóa, thì ông buồn, và quở trách!

Như thế nên bác Sa Di, lúc nào cũng lo và buồn vì được ăn thì mất tụng; được tụng thì mất ăn. Hôm nào đi khất thực về sớm thì tụng niệm đủ khóa, hôm muộn thì mất khóa tụng kinh.

Không may ngày hôm đó người dân ít cúng dàng, nên phải đi mãi gần trưa mà chưa đủ hai thầy trò ăn, thành ra trễ khóa bị thầy mắng! Ngày hôm sau buồn quá, vừa đi vừa khóc!

Ông trưởng giả thấy thế hỏi rằng:

– Tại sao sư bác khóc thế?

– Thưa trưởng giả! Thầy tôi nghiêm khắc quá! Ngày ngày bắt tôi tụng kinh định hạn theo thời khóa; nếu hôm nào tụng đủ thời khóa thì Ngài hoan hỷ! Nếu thiếu trễ thì bẳn gắt. Vì đi khất thực không có nhất định, hôm nào người dân cúng dàng đông, thì về sớm, tụng niệm thời khóa đầy đủ; hôm nào người dân ít cúng dàng, phải đi mãi, về đến chùa bị trễ, thiếu khóa tụng kinh, vì thế nên tôi khóc?

Trưởng giả nói: Vậy từ ngày hôm nay trở đi, sư bác cứ đến nhà tôi, tôi xin cúng dàng đầy đủ để khỏi lo việc ăn uống, cứ việc chuyên tâm tụng kinh tu học!

Từ đó sư bác được cúng dàng đầy đủ của ông trưởng giả, hàng ngày chuyên tâm tụng kinh tu học, thời khóa lễ niệm hoàn toàn, cả hai thầy trò đều vui vẻ!

Phật nhắc lại rằng:

– Tỷ Khưu các ông nên biết! Ông thầy của bác Sa Di khi đó, là đức Phật Định Quang, còn bác Sa Di là tiền thân của ta, ông trưởng giả cúng dàng hằng ngày, nay là ông A Nan.

Do thời quá khứ ông làm hạnh tụng kinh, nên kiếp này được phúc báo Tổng trì không quên một câu kinh, hay một bài kệ, cho đến một chữ; do ta tuyên giảng chánh pháp. Bấy giờ các vị Tỷ Khưu nghe Phật nói xong, ai nấy đều vui vẻ! Khát ngưỡng công đức trì tụng, và cúng dàng cúi đầu tạ lễ mà lui.

Phẩm thứ bốn mươi mốt: ƯU BÀ TƯ

Chính tôi được nghe Một thời ở nước Xá Vệ, tại vườn Cấp Cô Độc, cây của Kỳ Đà.

Thuở đó nước La Duyệt Kỳ có hai anh em người lái buôn, cùng ở một nơi. Người anh hỏi con gái ông Trưởng Giả, nhưng cô ấy hãy còn ít tuổi, nên chưa cho xin cưới.

Vì sự sinh kế cho đời, nên người anh ra nước ngoài buôn bán, không biết vì lý do gì mà lâu năm không về. Cô con ông Trưởng Giả đã lớn, chờ đợi sợ muộn xuân, tục thường nói:

“Trai trẻ mãi, gái có thời”.

Nên ông Trưởng giả gọi cậu em đến bảo rằng:

– Anh của chú đi xa, chắc chết rồi nên không thấy về, vậy tôi gả con gái tôi cho chú, ý chú nghĩ sao?

– Dạ, thưa Trưởng giả! Không được! Anh tôi hãy còn sống và tôi không bao giờ làm những chuyện kỳ quặc như vậy!

Từ đó trở đi, ông Trưởng giả luôn luôn thúc đẩy phải lấy con gái ông, nhưng anh vẫn kiên nhẫn không nghe.

Ông bất đắc dĩ phải mạo ra một lá thư, cho người lái buôn khác mang lại, ý nói rằng:

– Anh của chú đã chết lâu rồi.

Khi bắt được thơ, mở xem biết rằng anh mình đã chết, đương buồn phiền thương anh! Thì ông Trưởng giả đến hỏi:

– Hôm nay tại sao chú buồn thế?

– Thưa Trưởng giả, tôi vừa nhận được tin anh tôi đã chết từ lâu!

– Thôi chú ạ! Sự sinh tử chết sống của con người là thường! Việc chết thì lo việc chết, còn việc sống phải lo việc sống! Giờ đây tôi hỏi thực chú: con gái tôi có định kết duyên với nó thì xin trả lời, bằng không tôi sẽ định liệu cho nó?

Cũng do ông ép uổng quá, nên anh phải nhận lời.

Từ đó trai gái hai người kết duyên với nhau, chẳng bao lâu cô vợ đã có mang.

Người em yên trí rằng: Anh mình chết, mình chẳng lấy vợ của anh, thì kẻ khác cũng lấy, đương cuộc nồng nhiệt yêu nhau của đôi vợ chồng trẻ! Bỗng nhiên được tin anh ở nước ngoài trở về, người em sợ quá! Chạy trốn sang nước Xá Vệ.

Sau khi chạy trốn thì các bạn thân của người anh lại khám nghiệm té ra cô đã đánh đọa thai từ lâu.

Người em tìm đến chốn Phật ngự, thấy Phật anh ta tủi thẹn, cúi đầu lễ dưới chân, bạch Phật rằng:

– Kính lạy đức Thế Tôn! Con tới đây một lòng thành kính, cầu xuất gia tu học, cúi xin Ngài từ bi tế độ!

Phật hoan hỷ cho nhập làm Sa Môn và cải tên là Ưu Bà Tư, Chăm chỉ tu hành, chẳng bao lâu đã đắc quả A La Hán, đủ thần thông đạo lực.

Người anh khi về tới nhà, biết em đã lấy vợ của mình, nổi giận hầm hầm đi tìm để giết, tìm mãi không thấy. Có người họ mách em anh sang nước Xá Vệ, và đã theo Phật làm Sa Môn.

Anh ấy bỏ ra năm trăm lượng vàng, thuê người giết, và cùng đi sang nước Xá Vệ, tới nơi thấy Ưu Bà Tư đương tọa thiền, người đó tự phát sinh tâm từ bi nghĩ như vầy:

– Ta nỡ nào giết ông Tỷ Khưu kia, ông có thù oán gì với ta, nhưng nếu ta không giết thì sao lấy được số vàng này?

Trương cung bắn soành một tiếng, cái tên ấy trúng phải người anh, kêu la dữ dội oán hận mà chết, linh hồn đọa sinh làm con rắn độc, ở hố cổng nơi ấy, chờ thời cơ để cắn chết báo thù; một hôm bò qua ngưỡng cửa bị cánh cổng khép lại chết mất, tuy chết nhưng lòng uất hận chưa nguôi, nên lại nguyện sinh làm con trùng độc ở ngay phòng Ưu Bà Tư. Chờ khi Ưu Bà Tư tọa thiền nhảy xuống giữa đỉnh đầu đốt chết.

Trong chúng Đại Khưu, thấy ông Ưu Bà Tư chết một cách tự nhiên, không hiểu tại sao? Ngài Xá Lợi Phât biết nguyên uỷ như vậy, bạch với Phật rằng:

– Kính lạy đức Thế Tôn! Ưu Bà Tư Tỷ Khưu hiện đã đắc La Hán quả; còn bị trùng đốt chết, cúi xin chỉ giáo cho chúng con được biết nguyên do?

Phật nói: – Xá Lợi Phất ông nên biết: Đây cũng một nghiệp báo từ thời quá khứ; thuở bấy giờ có một vị Bích Chi Phật tu trong rừng đá đắc quả, một hôm có người đi săn, đặt lưới bắt cầm thú, vị Bích Chi Phật vì lòng thương nhân vật, nên Ngài hóa phép làm cho họ không bắt được con nào. Vì thế người đi săn tức giận, dùng tên độc bắn Ngài. Muốn cho người đó khỏi tội báo lâu đời, biết ăn năn tội lỗi của mình, nên Ngài bay lên hư không hiện ra mười tám phép thần túc.

Người đi săn thấy thế, sợ hãi trách mình, sinh lòng kính cẩn tới trước tạ lỗi, cầu xin xá tội.

Ngài cũng hoan hỷ cho sám hối. Sau khi về nhà bị trùng độc đốt chết, thần hồn đọa xuống địa ngục; khi hết tội địa ngục trong năm trăm kiếp bị trùng độc mà chết, cho đến ngày nay đắc đạo A La Hán, còn phải tội bị trùng độc cắn chết. Người đi săn thuở đó chính là Tỷ Khưu Ưu Bà Tư ngày nay, bởi lúc đó ác tâm hại vị Bích Chi Phật, nhưng lại biết sám hối, và phát nguyện đời sau được gặp Thánh Sư, tu đắc phép thần túc, bởi thế được gặp Ta và đắc đạo quả.

Khi Phật nói xong, Ngài Xá Lợi Phất và tất cả mọi người trong đại chúng, ai nấy đều sợ hãi nghiệp báo từ tâm nóng giận phát khởi chuyên lòng khắc ý, tẩy trừ sân hỏa, nguyện thanh tam độc, vui mừng tạ lễ lui ra.

Phẩm thứ bốn mươi hai: CON NGỘ SÁT CHA

Chính tôi được nghe Một thời ở nước Xá Vệ, tại vườn cây của ông Cấp Cô Độc và Thái Tử Kỳ Đà.

Thuở đó có một ông lão, vợ chết sớm, nhà nghèo, hai cha con ở với nhau. Tự giác ngộ thấy đời là vô thường tất cả muôn loài đều bị khổ: sinh, già, bệnh, chết, ưu sầu, khổ não, bất luận sang hèn bần tiện, đã có thân tất có khổ, chỉ theo Phật xuất gia là một đặc điểm giải thoát hơn tất cả.

Vì thế nên hai cha con đến chốn Phật ngự, cúi đầu lễ sát đất bạch rằng:

– Kính lạy đức Thế Tôn! Chúng con một lòng thành kính tới đây, cầu xin xuất gia tu học, cúi xin Ngài từ bi tế độ!

Phật dạy: Hay lắm! Theo ta tu học phải chăm chỉ mới chóng có kết quả!

– Dạ, lạy đức Thế Tôn, chúng con xin phụng giáo!

Đức Phật ngài cho người cha thọ Tỷ Khưu giới, người con thọ Sa Di Giới.

Cứ như thế cha con hằng ngày hầu Phật và Tăng, sớm đi khất thực, tối về chùa tụng kinh tọa thiền.

Một hôm hai cha con đến thôn xa khất thực, gần tối mới ra về qua một khu rừng nhiều thú dữ, người con sợ. Nắm tay cha, vừa lôi vừa đun đi cho mau. Cha già sức yếu, bị con lôi mạnh quá, xảy chân vấp ngã đập đầu vào tảng đá chết mất! Người con thấy cha chết, bỏ chạy về một mình. Song cũng không thưa trình gì với Phật và sư Tăng chuyện đó, lặng yên như không.

Các vị Tỷ Khưu không thấy ông già, hỏi Sa Di rằng:

– Cha con đâu? Không thấy ở Tinh Xá?

– Bạch chư Đại Đức, hôm qua cha con đi khất thực xa quá đường tối sợ ác thú hổ lang vồ bắt, nên con đẩy cha đi cho mau, không may cha con trượt chân ngã chết mất, lúc đó con sợ hãi quá chạy về một mình!

Các thầy Tỷ Khưu mắng rằng:

– Mi là kẻ đại ác, mi giết cha mi, giết sư của mi, thế mà từ hôm qua đến nay, cứ lặng yên không nói chi cả! Không hỏi đến cũng làm thinh!

Rồi quý thầy đem chuyện ấy thưa với Phật, để lo liệu cho ông.

Phật nói: – Tuy có mang danh giết cha, nhưng nó không có ý ác, là vì không thật tâm định giết, chỉ là một sự ngộ sát thôi!

Phật hỏi Sa Di rằng:

– Con giết cha con phải không?

– Dạ, lạy đức Thế Tôn, con chỉ có đẩy cha con đi cho mau, chớ không có ý gì ác đối với cha con, mà thành ra con giết cha con!

Phật dạy: – Con nói phải rồi! Ta biết tâm con không có ác, đời quá khứ cũng như thế; vì đời đó cha con cũng giết con; lúc đó cha con cũng không có ý ác, như thế là do thiện ác, sự báo ứng trả đáp.

Các thầy Tỷ Khưu nghe Phật nói xong, thưa rằng:

– Kính lạy đức Thế Tôn! Đời quá khứ cha con ông Tỷ Khưu già này, tại nhân duyên gì mà giết nhau một cách vô tâm như vậy, cúi xin Ngài nói lại cho chúng con được biết?

Phật dạy: – Các ông hãy lắng tai nghe tôi nói: từ đời đó tới đây đã lâu lắm, có hai cha con ở với nhau, gặp lúc người cha có bệnh nằm trên giường bị ruồi muỗi làm xúc não, cha bảo con rằng:

– Con ngồi cầm quạt, đuổi ruồi cho cha!

Người con đuổi luôn tay, nhưng hễ ngơi tay đuổi thì ruồi lại đến bâu. Người con đuổi mãi giận quá? Đi tìm một cây gậy lớn, chờ cho ruồi đến bậu vào mắt, mặt trán nhiều, giơ gậy đập vào giữa trán, người cha vỡ trán, máu chảy đẫm mặt chết tươi, thì lúc đó người con cũng không chủ tâm giết cha.

Các ông nên biết rằng: Người con lúc đó nay là ông Tỷ Khưu già, chính cha là Sa Di bấy giờ, mà người cha bị con đập chết thuở đó, nay là Sa Di. Bởi lúc đó vô tình đập chết cha, chứ không cố định, thì nay trả báo, cũng không cố sát!

Từ đó Sa Di chăm chỉ tu hành chẳng bao lâu đã đắc quả A Na Hàm. Các vị nghe Phật nói quả báo như vậy, ai nấy đều tin thực, và biết rằng quả báo không bao giờ xóa nhòa được, dầu cho lâu kiếp cũng phải đền trả, mọi người cúi đầu tạ lễ lui ra.

 

 

Phẩm thứ bốn mươi ba: TU ĐẠT LÀM TINH XÁ

Chính tôi được nghe Một thời Phật ở thành Vương Xá, tại vườn Trúc.

Khi đó nước Xá Vệ có một ông quan đại thần tên là Tu Đạt, nhà giàu, lại chăm làm hạnh bố thí, và hay cứu cấp kẻ nghèo khốn cùng khổ, vì thế nên thời bấy giờ người gọi ông là: Cấp Cô Độc.

Ông sinh được bảy người con trai và đã cưới vợ cho sáu cậu. Cậu thứ bảy có đầy đủ phúc đức tài năng, tướng người tốt đẹp, nên ông yêu quý hơn các cậu kia.

Một hôm có người bạn thân dòng Bà La Môn đến chơi, ông nói rằng:

– Thưa bác tôi sinh hạ được bảy cháu trai, đã lập gia đình cho sáu cháu, còn cháu thứ bảy, muốn nhờ bác, tìm hộ cho cháu, một nơi con nhà thế phiệt có đức hạnh tinh khiết, nết na hòa nhã, thân tướng xinh đẹp.

– Dạ, việc đó tôi xin giúp bác, không khó, vì tôi quen biết nhiều.

Hôm ấy ông sang thành Vương Xá, vào nhà quan Đại Thần tên là Hộ Di khất thực.

Cô con gái ông đưa món ăn cúng dàng, nhìn thấy con người có đức hạnh và xinh, nên ông hỏi cô rằng:

– Thưa cô, xin lỗi, tôi muốn hỏi thăm cô một lời có được không?

– Dạ, xin ông cứ việc hỏi, không sao.

– Dầu tốt lành, hay không tốt lành cô đừng buồn nhé!

– Dạ ông cứ hỏi!

– Thế này không phải! Cô đã lập gia đình chưa?

– Thưa ông chưa có, cháu còn đương ở với ba má cháu.

– Đã có ai bỏ cau chưa à?

– Thưa ông chưa có!

– Quan đại thần hôm nay có nhà không?

– Thưa ông, ba cháu hôm nay ở nhà!

– Cô thưa với quan lớn, tôi muốn vào thăm quan, và nói câu chuyện.

Cô vào thưa với quan đại thần rằng:

– Thưa cha, ngoài có người Bà La Môn, muốn vào gặp cha thưa chuyện?

Ông ra nhà khách, hai người gặp nhau, hỏi han vui vẻ! Bà La Môn nói:

– Thưa Phụ Tướng! Ngài có biết ông Tu Đạt làm quan đại thần ở nước Xá Vệ không?

– Thưa, chưa gặp ông lần nào; nhưng có biết tiếng!

– Thưa, Phụ Tướng! Ông nầy nhà giàu nhất nước Xá Vệ; được người con trai út, thông minh tuấn tú, sau này có thể làm lớn, tôi có nhận một lời ông ấy đi kén vợ cho cậu nhưng đã đi nhiều nơi. Song chưa tìm đâu được người có thể hợp ý, tình cờ hôm nay vào đây, thấy con gái của Ngài là một người đoan chính hơn đời.

Vậy tôi xin mối cho con ông Tu Đạt thì Ngài có vui lòng không?

– Dạ, được lắm tưởng nhà ai, chứ nhà ông Tu Đạt tôi rất bằng lòng.

Định về báo tin, nhưng gặp người lái buôn về nước Xá Vệ, nên ông biên thơ gởi cho ông Tu Đạt.

Khi bắt được thư ông vào tâu rằng:

– Tâu Bệ Hạ! Hạ thần có chút việc bên nước Xá Vệ, xin phép Hoàng Thượng đi ít ngày thu xếp.

– Khanh có việc chi bên đó?

– Tâu Bệ Hạ! Còn thằng cháu thứ bạy, để sang cưới vợ cho cháu.

– Con nhà ai bên đó?

– Tâu Bệ Hạ! Quan Phụ Tướng Hộ Di.

– Trẫm mừng cho Khanh! Được lắm!

Ông sắm đủ các lễ vật, mang đi rất nhiều vàng bạc. Trong khi đi đường gặp ai nghèo đói đều cấp tế cho họ.

Khi tới nơi, ông Hộ Di ra tiếp chào mừng vui vẻ! Rồi đưa vào nhà an nghỉ.

Hôm ấy ông Tu Đạt thấy nhà ông Hộ Di, nhiều người tấp nập, sửa sang nhà cửa, kê giường đặt ghế, trải chiếu, gối nệm trang nghiêm và thấy nấu nhiều các món ăn ngon lạ, hỏi rằng:

– Thưa Phụ Tướng, ngày mai có mời vua quan quý khách, hay có việc chi, mà làm nhiều cỗ bàn như vậy?

– Dạ, thưa không phải, muốn để cầu phước, nên nhà tôi ngày mai mời Phật và chư Tăng đến nhà cúng dàng!

Ông Tu Đạt được nghe thấy danh hiệu Phật và chư Tăng ngạc nhiên quá! Hình như được một điềm gì hay! Vui vẻ hỏi:

– Thưa Phụ Tướng, Phật là thế nào, xin nói cho chúng tôi được rõ?

– Ôi! Ngài không biết ư? Phật là con vua Tịnh Phạn. Tên là Tất Đạt Đa, lúc sơ sinh có ba mươi hai vạn ông thần; xuống thị vệ và có nhiều thụy ứng khác: Đi bảy bước trong bốn phương, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất phán:

– Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn!

Thân sắc vàng, có ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, nếu ở tại gia thì làm Kim Luân Vương, cai trị bốn thiên hạ. Vì thấy chúng sinh có bốn tướng sinh, già, bệnh, chết, nên Ngài xuất gia, tu khổ hạnh trong sáu năm được nhất thiết trí, hết kết sử thành Phật, hàng phục được mười tám ức vạn thiên ma ngoại đạo hiệu là Năng Nhân. Có thập lực, tứ vô úy, thập bát cộng pháp, quang minh chói sáng, soi suốt ba cõi nên gọi là Phật.

– Dạ, thưa Phụ Tướng! Thế nào gọi là Tăng, xin nói cho biết?

– Khi Ngài thành Phật rồi, ông vua cõi Trời Phạm Thiên xuống ân cần cầu thỉnh thuyết pháp. Sau khi nhận lời mời của ông. Ngài đến nước Ba La Nại tại vườn Lộc Uyển thuyết pháp nói về tứ chân đế, độ nhóm ông Kiều Trần Như năm người đắc quả La Hán hết lậu nghiệp đủ sáu thần thông, tứ như ý túc, thất giác, bát đạo, trên hư không có tám vạn người cõi Trời đắc quả Tu Đà Hoàn, và vô lượng người phát Bồ Đề tâm. Sau độ cho anh em ông Uất Bệ Ca Diếp ngàn người, cũng được hết lậu nghiệp thành La Hán quả, thứ ba độ ông Xá Lợi Phất, ông Mục Kiền Liên, và tất cả đồ chúng của các ông ấy cả thảy năm trăm người đều được đắc quả giải thoát, có thể tác phúc cho nhân gian thiên thượng nên gọi là Tăng.

Tu Đạt nghe nói một việc quý hóa, vui mừng bủn rủn chân tay một lòng tin kính, mong cho chóng sáng, để đến yết kiến Phật. Vì lòng thành kính thiết tha có thần cảm ứng, đương nữa đêm tối mà ông tự thấy ánh sáng tỏ soi khắp mặt đất như ban ngày, lòng hoan hỷ khôn xiết! Đứng dậy đi sang nước La Duyệt Kỳ để yết kiến đức Thế Tôn, vừa ra khỏi thành gặp ngôi thiên từ, ông bước vào làm lễ, tự nhiên quên mất tâm khát vọng Phật lại thấy tối om, sợ mãnh thú ác quỷ, định trở về thành chờ đợi sáng sẽ đi.

Cũng may ông có người bạn thân, chết được sinh lên cõi Trời Tứ Thiên Vương, thấy ông hối hận trở về, liền xuống bảo rằng:

– Cư Sĩ ông chớ hối nữa! Đi yết kiến Phật được phúc vô biên, ví nay được một trăm cỗ xe chở châu bảo, không bằng cất chân một bước, đi yết kiến đức Thế Tôn, còn được lợi gấp muôn ngàn; Cư Sĩ ông đi yết kiến Phật, chớ hối nữa ví như kiếp này được một trăm con voi chở châu bảo, cũng không bằng rời chân một bước đi yết kiến đức Thế Tôn còn được lợi ích khôn kể, Cư Sĩ ông nên đi, chớ hối nữa, chính như ông có được vàng bạc châu bảo, đầy cõi Diêm Phù Đề chăng nữa, cũng không bằng dời chân một bước đi yết kiến đức Thế Tôn, còn được lợi trăm muôn ngàn triệu; Cư Sĩ ông nên đi chớ hối nữa, ví như kiếp nay ông được vàng bạc châu bảo đầy bốn thiên hạ, cũng không bằng cất chân một bước đi viếng đức Thế Tôn, còn được lợi ích gấp trăm muôn ngàn triệu kể trên.

Ông Tu Đạt nghe nói, vui vẻ, cảm mến đức Thế Tôn, tự nhiên u tối băng tiêu, ánh bình minh tỏa soi trên đại địa như ban ngày, sung sướng đi yết kiến đức Thế Tôn.

Phật biết ông có duyên lành từ lâu kiếp nên Ngài ra ngoài đi kinh hành để ông gặp. Tu Đạt, đằng xa nhìn thấy đức Thế Tôn, thân sáng như quả núi vàng, oai nghi đĩnh đạc, tôn nghiêm lẫm liệt, tuy thấy Ngài nhưng ông không biết, vì chưa từng được gặp, tới nơi hỏi rằng:

– Thưa Ngài, đức Thế Tôn ở nơi nào xin làm ơn chỉ hộ?

Phật nói:

– Cư Sĩ ông hãy ngồi tạm chơi.

Khi ấy ông Tịnh Cư Thiên ở xa ngó thấy ông Tu Đạt gặp đức Thế Tôn mà không biết lễ bái viếng thăm, ông bèn hóa ra bốn người đi tới, cúi đầu lễ dưới chân, nhiễu về bên hữu ba vòng rồi lui ngồi về một phía.

Ông Tu Đạt thấy thế cũng bắt chước lễ bái như mấy người kia, rồi lui ngồi về một bên.

Khi đó đức Thế Tôn, giảng phép Tứ Diệu Đế, khổ, không, vô thường.

Ông Tu Đạt nghe xong, đắc quả Tu Đà Hoàn vui mừng! Như người đói được ăn, khát được uống, cũng như lụa Bạch Điệp nhuộm các sắc. Ông quỳ chắp tay thưa rằng:

– Kính lạy đức Thế Tôn! Trong thành Xá Vệ, những người nghe pháp, chóng giác ngộ như con có được nhiều không? Cúi xin ngài chỉ giáo cho?

Phật dạy: “Trong thành Xá Vệ đối với sự nghe pháp mau hiểu ngộ, không được một người thứ hai như khanh, phần nhiều kẻ tà kiến khó được người tin theo chánh giáo”.

– Kính lạy đức Thế Tôn! Con nguyện xin Ngài sang nước Xá Vệ thuyết pháp để khiến cho nhân dân biết bỏ tà quy chính!

Phật nói: – Ngài xuất gia phải xa nơi thế tục, làm thế nào có một tinh xá, thì mới tiện nghi cho việc giảng diễn Chánh Pháp!

– Dạ, kính lạy đức Thế Tôn! Con xin về làm Tinh Xá, cúi xin ngài hứa khả cho?

– Muốn cho lợi ích chúng sinh, và gây phúc cho chính mình, ông nên gắng sức, công đức vô lượng!

Ông lễ tạ lui ra, về nhà lo việc cưới vợ cho con xong đâu đấy, lại sang nước La Duyệt Kỳ bạch Phật rằng:

– Kính lạy đức Thế Tôn! Con về bản quốc lập Tinh Xá, nhưng không biết phương pháp làm thế nào? Kính xin Ngài cho một vị Sa Môn sang chỉ bảo cách thức?

Ngài nghĩ như vầy: “Nước Xá Vệ nguyên những kẻ Bà La Môn tin theo tà giáo, ai là người hàng phục nổi! Chỉ có ông Xá Lợi Phất trước là dòng Bà La Môn. Cũng có chút đỉnh thông minh và phép thần túc, sai đi có lẽ đắc lực”.

Phật gọi ông Xá Lợi Phất bảo rằng:

– Xá Lợi Phất! Ông Tu Đạt muốn cho hưng long ngôi Tam Bảo, đưa dắt chúng sinh cải tà quy chính, nên ông định lập tinh xá tại nưới Xá Vệ, mời ta về thuyết pháp, nhưng không biết cách thức làm. Vậy ông sang đó, góp sức với ông ấy xây cất tinh xá cho ta!

– Dạ! Lạy đức Thế Tôn con xin phụng giáo!

Ông Tu Đạt hỏi Ngài Xá Lợi Phất rằng:

– Kính thưa Tôn Giả! Đức Thế Tôn đi bộ mỗi ngày được mấy dặm?

Đức Thế Tôn đi mỗi ngày được nữa do tuần; cũng bằng vua Chuyển Luân Thánh Vương.

Bắt đầu từ thành Vương Xá, cứ cách hai mươi dặm ông làm một Khách Xá (nhà nghỉ chân) cho tới nước Xá Vệ.

Khi về tới nhà hai người an nghỉ vài ngày cho mạnh sức, rồi đi tìm đất làm Tịnh Xá. Hai ông đi khắp nước không tìm được nơi nào chỉ có khu vườn của Thái Tử Kỳ Đà bằng phẳng rộng rãi mát mẻ, cây cối tốt tươi có thể đắc xứ sở. Ngài Xá Lợi Phất bảo ông Tu Đạt rằng:

– Chỉ có khu vườn này làm được, không gần thành thị, và cũng không xa, nếu xa chư Tăng đi khất thực khó; gần thì huyên náo, sợ phế bỏ sự hành đạo.

– Thưa Thái Tử, tôi có một việc muốn phiền Thái Tử được không.

– Ngài có việc gì; nếu có thể tôi xin giúp.

– Thưa Thái Tử! Vườn đất nhà tôi rất nhiều, nhưng không dùng được khu nào để làm Tịnh Xá, mời Phật về nước ta thuyết pháp, giáo hóa cho nhân dân, nhận thấy khu vườn của Thái Tử nơi rộng rãi mát mẻ, muốn mua lại khu vườn ấy, để kiến tạo Tịnh Xá, Thái Tử có vui lòng không?

Thái Tử cười nói: – Tôi có thiếu thốn gì mà phải bán, để lúc thư nhàn ra hóng mát chỉ tiêu dao ý chí!

Tu Đạt ân cần nói đến hai ba lần. Bất đắc dĩ Thái Tử, nói một giá rất đắt, để ông về nhà cho yên chuyện.

– Vâng, nếu Đại Thần muốn mua thì đem vàng lát khắp mặt đất không hở một chỗ nào thì tôi bán!

– Dạ! Thái Tử lấy từng ấy tôi cũng xin trả!

Thái Tử nói: – Tôi nói đùa vậy chứ bán làm sao được!

Tu Đạt nói: – Ngài làm Thái Tử không thể nói dối được. Nói dối sau này Ngài trị dân làm sao?

Ông Tu Đạt định tâm nếu thái tử không bán, thì kiện. Vì thế ông Tịnh Cư Thiên, sợ các quan xử thiên lệch, nên hiện thân xuống nói với Thái Tử rằng:

– Phép làm Thái Tử không được nói dối: Ngài đã hứa thì không nên sai lời!

Thái Tử nghe có lý đáp lời rằng:

– Phải! Tôi vui lòng bán cho Đại Thần đấy!

Tu Đạt vui vẻ, về nhà lập tức sai gia nhân, đưa voi chở vàng đến, chỉ trong tám mươi khoảnh khắc đã lát vàng khắp mặt đất, riêng còn đám gốc cây chưa lát xong.

Tu Đạt thầm nghĩ: “Đám gốc cây này, chẳng còn bao nhiêu, ta cứ lát hết!”

Thái Tử Kỳ Đà, nghĩ như vầy:

– Đức Phật phải là người thế nào cho nên ông này, mới khinh của như thế; chắc rằng cúng Ngài có phúc đức lớn, vậy ta cũng nên cầu phước.

Nghĩ xong ngăn lại nói rằng:

– Thôi! Ông đừng cho lấy vàng đến nữa! Vườn là thuộc ông, còn cây tôi xin dâng Phật làm Tinh Xá.

Thấy Thái Tử đã phát tâm kính mộ Phật. Ông Tu Đạt rất vui lòng! Về nhà đặt công tác xây cất.

Đoạn này bọn Lục Sư nghe biết ông Tu Đạt xây cất Tịnh Xá, để mời Phật về thuyết pháp, lên tâu vua rằng:

– Tâu Bệ Hạ! Trưởng giả Tu Đạt mua rừng Kỳ Hoàn, làm Tinh Xá mời Sa Môn Cồ Đàm về giảng đạo, xin Bệ Hạ cho chúng tôi đấu phép: nếu Sa Môn thắng thì cho làm; nếu chúng tôi thắng thì không cho làm. Hiện nay đồ chúng của Sa Môn Cồ Đàm ở thành Xá Vệ chúng tôi ở tại đây.

Nhà vua triệu ông Tu Đạt vào cung hỏi:

– Tu Đạt, Lục Sư nói Khanh mua rừng Kỳ Hoàn làm Tinh Xá, để mời Sa Môn Cồ Đàm về giảng đạo phải không?

– Dạ! Tâu Bệ Hạ! Việc đó có thực, xin Bệ Hạ thứ lỗi cho!

– Chúng xin ta đấu phép với đệ tử của Sa Môn: nếu thắng được chúng thì cho làm, nếu thua thì không được làm. Khanh nghĩ sao?

– Tâu Bệ Hạ! Việc đó để Hạ Thần về hỏi xem, nếu đệ tử của Sa Môn vui lòng đấu, thì Hạ Thần xin tâu sau!

Tu Đạt hết vui, vừa lo vừa buồn!

Sớm ngày mai ông Xá Lợi Phất mặc áo cầm bát đến nhà, thấy ông có vẻ buồn liền hỏi rằng:

– Hôm nay coi ông có vẻ buồn! Hay việc chi cản trở chăng?

– Thưa Tôn Giả! Việc làm Tịnh Xá không biết có thành không? Vì thế nên tôi buồn!

– Có việc chi mà ông sợ không thành?

– Thưa Tôn Giả bọn Lục Sư lên tâu vua, xin đấu phép với Tôn Giả; nếu Tôn Giả thắng thì cho làm, nếu thua chúng thì không được làm. Bọn chúng xuất gia, tu học đã lâu năm, pháp thuật cao cường khó người địch nổi, tôi không biết Tôn Giả có thắng được không, nên từ qua đến nay cứ tư lự mãi!

– Không sao! Ông cứ yên tâm, dầu cho bọn chúng nhiều như tre gỗ khắp mặt đất, cũng không có thể làm động nổi trên cái lông chân của tôi, muốn đấu thì đấu, tôi hẹp chi!

Tu Đạt mừng quá! Tắm rửa sạch sẽ, mặc áo tề chỉnh lên tâu vua rằng:

– Tâu Bệ Hạ! Hạ Thần về hỏi đệ tử của Sa Môn vui lòng đấu với Lục Sư, xin Bệ Hạ thông cáo!

Nhà vua gọi Lục Sư lên nói rằng:

– Trẫm đã hỏi đệ tử của Sa Môn rồi! Họ bằng lòng đấu phép, các ông sửa soạn đi, ta cho phép sau bảy ngày nữa sẽ đấu.

– Dạ! Tâu Bệ Hạ, để thông cáo cho quốc dân biết đến xem.

– Được tuỳ ý!

Nước Xá Vệ có mười tám ức người, luật đánh trống hội họp như sau: nếu nhân dân nghe thấy đánh trống đồng, thì số mười hai ức người lại họp; nếu nghe thấy đánh trống bạc, thì mười bốn ức người lại họp tất cả. Khi tới ngày đấu phép họ đánh trống vàng.

Nhà vua sắc lệnh cho dân sửa sang nơi thí vàng, treo cờ, dựng biểu ngữ, bày tòa đặt ghế trang nghiêm. Vua quan dân chúng ra trước; vua ngồi trên, các quan ngồi dưới, dân chúng đứng vây quanh. Lục Sư đồ chúng có hai ức người tới sau, thứ tự ngồi yên tĩnh. Ông Tu Đạt cũng bày một tòa cao đẹp để dành riêng cho Ngài Xá Lợi Phất.

Giữa lúc đó Ngài Xá Lợi Phất đương ngồi thiền dưới gốc cây, sáu căn vắng lặng, du chơi các thiền định, vô chướng ngại, thầm nghĩ như vầy:

– Đại hội này chúng tập thói tà Kiền Đà Lâu, kiêu ngạo tự cao tự đại cũng như lối cỏ rác, ta biết lấy đức gì để hóa phục họ?

Nghĩ thế rồi xuất định đứng lên dùng tam đức, và lập thệ rằng:

– Nếu tôi trong vô số kiếp đã tu từ hiếu với cha mẹ, kính trọng Sa Môn, Bà La Môn, xin cho tôi mới tới hội, thì tất cả đại chúng đều phải đứng dậy tác lễ!

Khi đó Lục Sư thấy người đến đã đông đủ mà ông Xá Lợi Phất chưa đến, lên tâu vua rằng:

– Tâu Bệ Hạ! Sa Môn đệ tử biết không có tài, đánh bạo nói đấu, giờ đây thấy dân chúng đến đông đảo, chắc sợ không lại!

Vua gọi ông Tu Đạt hỏi rằng:

– Tu Đạt, để tử của Thầy khanh nhận lời đấu phép, tại sao giờ chưa tới?

– Dạ, Tâu Bệ Hạ để hạ thần về tìm.

Ông Tu Đạt về nơi Ngài ngự, quỳ bạch rằng:

– Kính bạch Đại Đức Tôn Giả! Vua quan dân chúng, và bọn Lục Sư đã tới đông đủ, xin Ngài ra hội.

Ngài Xá Lợi Phất lấy áo mặc tề chỉnh, tấm Ni Sư Đàn vắt vai bên tả đi ung dung đĩnh đạc, như Sư Tử Vương tới nơi. Tất cả vua quan dân chúng, Lục Sư, nhìn thấy oai phong của Ngài đáng sợ; thốt nhiên toàn thể đứng lên, lễ Ngài như giã gạo, chẳng khác chi một cơn gió mạnh thổi lướt trên làn cỏ lau.

Ngài thăng tòa ngồi nghiễm nhiên như núi Tu Di. Bọn Lục Sư có một người tên là Lao Độ Sai, pháp thuật giỏi nhất, trước mặt đại chúng đọc chú, hóa ra một cây to lớn che rợp cả đại hội, cành lá xanh tươi, hoa quả tốt đẹp, mọi người đều vỗ tay reo, hoan hô thần biến của Lao Độ Sai!

Ngài Xá Lợi Phất dùng thần lực hóa thành cơn gió lốc, đập gẫy tan cây ấy ra như vi trần. Đại chúng đều vỗ tay hô lớn, thần biến của Ngài Xá Lợi Phất giỏi, Lao Độ Sai kém!

Lao Độ Sai đọc chú hóa ra một cái ao, bốn bề đều bằng thất bảo, trong ao có rất nhiều hoa. Đại hội đều vỗ tay khen tài!

Ngài Xá Lợi Phất hóa ra con bạch tượng sáu ngà, trên mỗi ngà có bảy ao sen, trên mỗi hoa sen có bảy người ngọc nữ. Bạch tượng từ từ đi đến ao của Lao Độ Sai hóa, thả voi hút hết nước. Đại hội đều vỗ tay khen thần thông Ngài Xá Lợi Phất giỏi!

Lao Độ Sai lại hóa ra một quả núi trang nghiêm bằng thất bảo có suối nước chảy, cây cối um tùm, hoa quả tốt tươi. Đại chúng đều vỗ tay reo!

Ngài Xá Lợi Phất hóa ra rất nhiều các vị Kim Cương lực sĩ, đứng xa cầm chày chỉ, tự nhiên núi ấy tan bay ra như bụi nhỏ. Đại chúng đều vỗ tay khen Ngài Xá Lợi Phất giỏi!

Lao Độ Sai hóa ra một con rồng mười đầu bay trên không gian, mưa các thứ châu bảo xuống, và làm sấm chớp dữ dội. Đại chúng đều kinh sợ, và hoan hô giỏi!

Ngài Xá Lợi Phất liền hóa ra một con chim Kỳ Súy Điểu, lấy chân bắt rồng xé nát bỏ mồm nuốt chửng. Đại chúng vỗ tay kêu như pháo nổ, hoan hô thần biến của Ngài Xá Lợi Phất đại thắng!

Lao Độ Sai hóa ra một con trâu thân thể lớn, béo tốt khỏe mạnh, chân to móng sắc, quỳ dưới đất kêu rống mấy tiếng rất dữ dội, rồi chồm nhảy lại trước mặt Ngài Xá Lợi Phất.

Ngài Xá Lợi Phất hóa ra một con Sư Tử, lấy chân móc họng trâu rồi xé nát ra ăn hết. Đại chúng đều vỗ tay reo. Khen Ngài Xá Lợi Phất thắng, Lao Độ Sai bại.

Lao Độ Sai biến thân thành con quỷ Dạ Xoa cao lớn, trên đầu lửa cháy dữ dội, mắt đỏ như huyết, bốn răng khóe dài nhọn mọc chìa ra ngoài, mồm phun ra lửa, chồm nhảy rất ghê sợ!

Ngài Xá Lợi Phất tự hóa thân làm ông Tì Sa Môn Thiên Vương, quỷ Dạ Xoa sợ hãi chạy trốn, bị bốn bên lửa cháy vây như một bức thành, hết lối tẩu thoát, chỉ nơi Ngài Xá Lợi Phất mát mẻ.

Đến đây Lao Độ Sai chịu khuất phục, năm thê gieo xuống đất cúi đầu xin tha mệnh, nhưng vì bị nhục quá nên lửa ở quả tim, phát ra cháy thiêu mất thân thể. Khi đó tất cả đại chúng, đều vỗ tay kêu như sấm! Vui mừng! Và hoan hô Ngài Xá Lợi Phất đại thắng.

Muốn cho toàn thể vua quan, dân chúng, cải tà quy chính, biết tôn sùng ngôi Tam Bảo, nên Ngài bay lên hư không, hiện ra bốn oai nghi: đi đứng nằm ngồi trên hư không, trên mình phun ra nước, dưới mình phun ra lửa, ẩn bên đông, hiện bên tây, nhô bên nam, hiện bên bắc; hoặc hiện thân to lớn chật hư không, rồi thu hình lại rất nhỏ; hoặc biến ra trăm ngàn muôn ức thân, xong lại hợp nhất; đương trên không hốt nhiên ở dưới đất; hoặc đi trên mặt nước, cũng như người đi trên đất, biến hiện rất nhiều phép thần túc, lại về ngồi trên bảo tọa như cũ.

Tất cả đại chúng từ vua đến dân, nhìn thấy phép thần vô ngại, ai nấy đều kính phúc, phát tâm tín kính ngôi Tam Bảo.

Ngài thấy họ đã phát tâm chuyển hướng theo Phật, nên Ngài nói về tội phúc báo ứng, nhân duyên sinh Pháp. Nghe xong có người đắc quả Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, cho đến quả A La Hán. Còn ba ức đồ chúng của Lục Sư, quay đầu về theo Ngài, làm đệ tử xuất gia, tất cả cúi đầu tạ lễ lui ra, rồi giải tán.

Cách mấy bữa sau, Ngài và ông Tu Đạt, đo đất tại khu vườn Kỳ Hoàn, mỗi người cầm một đầu dây, thấy Ngài mỉm cười! Ông hỏi:

– Tôn Giả cười gì?

– Tôi cùng ông cầm dây đo, vừa hết một vòng vườn này, thì cung điện ở trên sáu cõi trời đã làm xong! Vì thế mà tôi cười!

– Vì lý do gì Tôn Giả cười?

– Vì ông làm Tinh Xá cúng Phật nên phúc của ông được ở các cung điện cõi trời, hiện ra nhanh như vậy! Tôi sẽ cho ông mượn đạo nhãn mà coi!

Ông Tu Đạt nhờ đạo nhãn, nhìn thấy những cung điện rất trang nghiêm đẹp đẽ, giành riêng cho mình trên sáu cõi trời, thưa rằng:

– Kính thưa Tôn Giả trong sáu cõi này; cõi nào vui hơn nhất.

– Ba cõi dưới đam hoang về sắc dục nhiều, đến cõi thứ tư, là những người ít dục biết đủ, thường có những Bồ Tát nhất sinh bổ xứ sinh tới, tiếng thuyết pháp không lúc nào ngớt. Trên, còn hai cõi nữa, chúng sinh ở đấy có tính kiêu mạn dậc lạc; buông lung lu bù.

– Kính thưa Tôn Giả! Nếu vậy, đời sau con nguyện sinh lên cõi thứ tư!

Ông nguyện xong, các cung điện kia đều diệt hết, mà chỉ nhìn thấy cung điện cõi thứ tư, yên nhiên không biến động, bắt đầu đo, ông nhìn thấy Ngài có sắc buồn! Bèn hỏi:

– Tôn Giả, tại sao Ngài có vẻ buồn?

– Trưởng giả có nhìn thấy đàn kiến này không?

– Dạ, thưa Tôn Giả, có nhìn thấy!

– Trưởng giả, vì chưa có đạo nhãn, nên không biết nguyên uỷ đám kiến này. Đời quá khứ cũng ở khu đất này, ông làm Tinh Xá cúng dàng đức Phật Tỳ Bà Thi, thì đàn kiến này nó ở đây! Đến đời đức Phật Thi Khí, ông cũng làm Tinh Xá ở khu đất này cúng Phật, đàn kiến này nó cũng sinh ở đây! Đến đời đức Phật Tỳ Xá Phú ông cũng làm Tinh Xá ở khu đất này cúng Phật, thì đàn kiến này nó cũng sinh đây! Đến đời đức Phật Câu Lưu Tôn ông cũng làm Tinh Xá ở khu đất này cúng Phật, đàn kiến này nó cũng sinh ở đây! Cho đến nay đã chín mươi mốt kiếp, còn phải làm thân con kiến không thôi, biết ngày nào giải thoát? Ông nên coi sinh tử đọa lạc lâu dài như thế, đã mấy ai biết sợ mà cầu giải thoát, cho nên con người có trí phải biết bớt bỏ lòng tham dục si mê mà tu đạo làm thiết yếu.

Tu Đạt nghe xong rơi lệ chứa chan! Thương mình và thương chúng sinh; mê đường lạc nẻo, tham chút vinh lạc nhơ bẩn của thế gian, đến nỗi bỏ thân này, thụ thân kia, lộn vòng xoay trong các thú!

Đo đất xong bắt đầu xây cất Tinh Xá, làm riêng một lầu gác bằng gỗ chiên đàn cúng Phật, nơi biệt cư cúng Tăng, làm hai mươi khu, gồm có một ngàn hai trăm năm mươi vị, để hiệp lệnh riêng. Làm xong ông tự nghĩ rằng:

– Dầu sao mình cũng là một kẻ hạ thần của nhà vua, nếu cứ tự do mời Phật, sợ có chướng ngại hoặc vua không hài lòng, vậy ta tâu vua xem ý thế nào?

– Tâu Bệ Hạ! Hạ thần làm Tinh Xá, để mời Phật về nước nhà, giảng đạo, cho dân chúng bớt bỏ lòng bạo ngược tham tàn, tu theo chánh giáo, ngõ hầu quốc gia được an lạc thái bình. Cúi xin Bệ Hạ, cho sứ đi mời Phật, hạ thần được đội ơn vạn bội!

Nhà vua nghe nói rất hợp ý mình, liền sai người sang thành Vương Xá mời Phật và chư Tăng. Tuân lệnh, Sứ sang Vương Xá, vào yết kiến Phật, cúi đầu làm lễ thưa rằng:

– Kính lạy đức Thế Tôn! Chúa công con và hạ thần Tu Đạt, cho con tới đây câu thỉnh Thế Tôn hạ cố quang lâm sang nước Xá Vệ, để tuyên đương chánh pháp, cho quần sinh được ân triêm đức hóa, cúi xin Ngài từ bi hoan hỷ! Cho chúa con và hạ thần Tu Đạt được ăn mày công đức!

Phật dạy: – Quý hóa! Chúa khanh và hạ thần Tu Đạt muốn cho quốc dân được an vui sung sướng trên cõi nhân thiên, mãi mãi, ta hứa một ngày gần đây sẽ đến.

Sứ thần tạ lễ lui ra!

Đức Thế Tôn sau khi nhận lời mời của nhà vua, muốn cho chánh pháp chóng soi tỏ lòng người, nên đầu tiên Ngài phóng Đại Quang Minh ở trên đỉnh đầu, làm chấn động thiên địa, khắp nước Xá Vệ mọi người đều biết oai thần của ngài.

Khi đi sang nước Xá Vệ có rất nhiều đệ tử theo hầu, tới khách xá, Ngài cùng đại chúng vào nghỉ chân. Trong lúc đi đường, Ngài cũng giáo hóa được rất nhiều người quy y Tam Bảo. Dần dần tới nước, Quốc Vương quần thần nhân dân, mang hương ra đón, người đông như hội, ai nấy đều lễ sát đất, như một làn gió thổi lướt trên đám cỏ lau, thực là một buổi vô cùng vui vẻ! Ngựa xe chật đường, người đi như nước chảy. Nơi tiếp Ngài, một khu đất cao sạch mát mẻ, quy vuông năm ngàn mẫu, trang trí tôn nghiêm, treo cờ, dựng biểu ngữ, phướn lọng rợp trời. Đức Phật tới nơi ngồi trên bảo tọa oai nghiêm phóng Đại Quang Minh chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, ngón chân bấm xuống đất làm chuyển động hoàn cầu, các nhạc tự nhiên vang động, không người điều khiển. Nhờ đức hóa của Phật, kẻ mù được sáng con mắt; kẻ điếc được nghe rõ; kẻ câm ngọng được nói năng; kẻ còng được ngay thẳng, nói tóm lại tất cả toàn quốc đều hết tật bệnh đau khổ. Nhân dân lớn nhỏ trai gái trẻ già đều vui mừng hớn hở chen nhau đến lễ Phật.

Khi đó, đức Phật tùy theo căn khí mà thuyết pháp cho họ nghe. Cũng như ông thầy thuốc, tuỳ theo bệnh nhân mà cho thuốc, những người có phúc duyên nhiều, nghe pháp chóng được chứng đạo; có người chứng quả Tu Đà Hoàn; Tư Đà Hàm; A Na Hàm; cho đến quả A La Hán; cũng có người gây nhân Bích Chi Phật, cũng có người phát tâm cầu đạo vô thượng Bồ Đề.

Khi đó Phật bảo tôi (A Nan) rằng:

– Vuờn này thuộc ông Cấp Cô Độc, cây thuộc Thái Tử Kỳ Đà, hai người chung sức làm Tinh Xá. Vậy nên đề rằng: Cây của Thái Tử Kỳ Đà, vườn của ông Cấp Cô Độc, lưu truyền cho hậu thế.

Đức Phật dạy thế, tôi xin phụng mạng, rồi đó mọi người đều cúi đầu, lễ Phật lui ra.

 

 

 

Phẩm thứ bốn mươi tư – LẶC NA SÀ GIA

Chính tôi được nghe Một thời đức Phật ở nước Ca Tỳ La Vệ, tại Tịnh Xá Ni Câu Lư Đà.

Khi bây giờ giòng họ Thích và nhân dân thấy đức Thế Tôn có quang minh thần biến, tuyên dương chánh giáo, đường đường chính chính, khắp nhân thiên phàm thánh đều quy ngưỡng. Họ ca tụng nhóm ông Kiều Trần Như năm người đối với Phật có duyên gì tốt, mà được nghe pháp đầu tiên; được đắc giải thoát trước, trong thành ngoài ấp đều tùng phục tôn kính.

Các vị Tỳ Khưu nghe biết, lên bạch Phật rằng:

Kính lạy đức Thế Tôn! Nhân dân họ đương tán tụng Thế Tôn! Và khen nhóm ông Kiều Trần Như, tiền thế có phúc lành gì mà được độ trước, cúi xin Ngài chỉ bảo cho. Phật dạy: Các ông nên biết kiếp xưa đã quá lâu, ta phải lấy thân làm thuyền để cứu bọn ông; cũng do duyên lành ấy, mà nay ta độ cho bọn ông trước!

Các thầy lại thưa với Phật rằng:

– Kính lạy đức Thế Tôn, đời trước Ngài cứu bọn ông ấy, việc đó thế nào cúi xin chỉ giáo cho chúng con được biết?

– Các ông hãy để ý nghe cho kỹ! Cũng ở Châu Diêm Phù Đề này, thời đó có một nước gọi là Ba La Nại, vua nước ấy là Phạm Ma Đạt.

Ông Lặc Na Sà Gia là một nhà buôn, hôm đó ra chơi nơi khu rừng gặp một người khóc và đương thắt cổ tự tử! Ông tới nơi hỏi rằng:

– Anh tại sao thế? Thân người khó được, mạng sống mỏng manh suy biến luôn luôn, nay còn mai thác! Thôi, anh hãy cởi dây ra, đừng chết đi cho uổng, muốn gì nói cho tôi nghe, nếu có thể giúp được, tôi xin giúp.

– Thưa ông! Thôi nghèo khổ quá! Cùng cực khổ! Công nợ nhiều, hết phương kế sống! Chủ nợ lại đòi sỉ nhục thậm tệ, nhà cửa ruộng nương họ tịch thâu hết, tuy ông có tâm can tôi, nhưng sống không chỗ dung thân, tôi định bỏ mạng ở đây cho hết khổ!

– Anh cởi dây ra, công nợ nhiều ít tôi sẽ trả cho, đừng lo!

– Anh ta vui mừng quá! Cởi dây, rồi theo về nhà. Ngày mai ra chợ để gặp các chủ nợ, bảo cho họ biết sẽ trả, và dặn đến nhà ông Lặc Na Sà Gia.

Hôm sau họ đến đông quá, ông trả tận gia tài mà chưa hết nợ, đến nỗi vợ con ông phải đi ăn xin, cha mẹ anh em làng xóm đều ghét ông là kẻ cuồng si, phá hoại gia nghiệp, để vợ con đói khổ!

Đương lúc ông bị cùng đường, có bọn nhà luôn mời ông ra biển buôn một chuyến, ông nói:

– Tôi là một người hướng đạo cho các bạn, lý ra tôi phải mua thuyền cho các bạn đi, hồi này hết tiền thì các bạn tính sao?

Đáp: – Chúng tôi có năm trăm người, xin bỏ tiền mua thuyền.

Sau họ góp nhau lại được rất nhiều vàng đưa cho ông, ông mua thuyền một ngàn lạng; mua lương ăn đường một ngàn lạng, sắm các đồ trên thuyền một ngàn lạng. Còn bao nhiêu cho vợ con, và cấp đỡ cho anh nhà nghèo nói trên.

Chiếc thuyền dầy khỏe bảy lần ván, dùng bảy dây buộc neo trên bờ, rồi phát lệnh cho các khách buôn để sửa soạn nhập hải, khi đến đông đủ, ông lớn tiếng nói rằng:

– Ai không mến gia đình vợ con, thân mạng, cho đến quốc gia thì đi, vì ra biển rất nhiều nguy hiểm, nào sóng to gío lớn, cá Ma Kiệt, quỷ dạ xoa, rồng độc, nói xong cắt một dây neo, bảy ngày cắt bảy dây.

Thuyền bắt đầu đi, biển cả mênh mông, một trời một nước, hốt nhiên gặp sóng gió lớn, làm cho thuyền nghiêng ngả chực đắm, mọi người đều sợ hãi, khi đó kẻ dùng phao, dùng gỗ, người nhảy xuống biển; người ở trên thuyền, trong số đó có năm người thưa với ông rằng:

– Chúng tôi theo ông tới đây, giờ chết sắp đến, mong ông cứu chúng tôi!

– Dạ, tôi nghe trong biện cả, không bao giờ chứa nạp tử thi, vậy các ông nắm lấy tôi, tôi sẽ tự sát thân này cứu các ông, nguyện đem công đức cầu thành Phật, khi đó tôi sẽ lấy thuyền vô thượng chánh pháp chở các ông sang qua bể lớn sinh tử trước.

Nói xong lấy dao đâm cổ chết, đại hải bất nạp tử thi, ông thần biển dùng gió thổi xác ông dạt vào bờ, bọn năm người được thoát chết trở về nước.

Nói tới đây Ngài nhắc lại rằng:

– Tỷ Khưu các ông nên biết: Ông Lặc Na Sà Gia thuở đó, chính là tiền thân của ta, còn năm người bám vào xác chết nay là nhóm ông Kiều Trần Như năm người, tới nay ta thành Phật, bọn ông được nghe pháp đắc quả đầu tiên, là vì lý do ấy.

Nghe lời Phật nói, các vị đều tán thán công đức của Phật vô cùng to lớn, ai nấy đều gắng sức tiến tu, cúi đầu tạ lễ lui ra.

Phẩm thứ bốn mươi lăm: CÁ TRĂM ĐẦU

Chính tôi được nghe Một thời đức Phật ở nước Ma Kiệt Đề, tại vườn Trúc.

Một hôm đức Thế Tôn và các vị Tỷ Khưu, sang nước Tỳ Xá Ly, ngồi nghỉ mát trên bờ sông Lê Việt. Trên bờ có năm trăm người chăn trâu và năm trăm người đánh cá; những người đánh cá này, họ có ba thứ lưới: một thứ hai trăm người kéo; một thứ ba trăm người kéo; một thứ năm trăm người kéo.

Đức Như Lai và các vị Tỷ Khưu ngồi cách họ cũng không xa, một lát thấy năm trăm người nọ, kéo hết sức cũng không nổi, sau họ gọi bọn năm trăm người chăn trâu lại kéo giùm, một lúc kéo lên được con cá rất lớn; trên mình cá có đủ trăm đầu thú: đầu ngựa, đầu lạc đà, đầu hổ, đầu chó sói, đầu lợn v.v… cá lạ xúm nhau lại xem.

Thấy thế, Phật sai tôi lại coi. Tôi vâng lời, lại nhìn thấy con cá lớn trên mình có đủ trăm đầu thú khác nhau, tôi lại trở về bạch Ngài biết rõ căn nguyên.

Ngài cùng đại chúng đi lại xem, khi tới nơi Ngài hỏi cá rằng:

– Cá, có phải là Ca Tỳ Lê không?

Cá đáp: – Thưa phải.

Ngài hỏi tiếp:

– Kiếp này làm cá, kiếp sau biết về đâu không?

– Thưa Ngài, kiếp sau về địa ngục A Tỳ.

Tôi và đại chúng không rõ tại sao, bèn hỏi Phật rằng:

– Kính lạy đức Thế Tôn! Ngài gọi con cá này là Ca Tỳ Lê vì lý do gì, xin nói cho chúng con được rõ?

Phật dạy: – Các ông hãy lắng nghe tôi nói nguyên ủy con cá này cho biết: Trước đây, về thời đức Phật Ca Diếp có một người Bà La Môn sinh được cậu con trai, đặt tên là Ca Tỳ Lê; cậu này thông minh tài trí, đối với hàng văn hoa trí thức thời đó; anh ta giỏi nhất. Tuy thế nhưng đối với trí tuệ học vấn của các vị Sa Môn thì anh ta kém đặc.

Khi cha anh chết có dặn anh rằng:

– Con chớ đàm luận với các vị Sa Môn của đức Phật Ca Diếp; vì các vị có trí tuệ sâu rộng, con không thể bì kịp.

Sau khi cha anh chết: anh vẫn còn đi học; và anh được tiếng khen trong nước là người tài biện luận, nhưng không bao giờ anh ngồi đàm luận với các vị Sa Môn, thấy con khuyết diểm ấy, nên một hôm mẹ anh hỏi rằng:

– Con vốn là người cao minh học vấn; đời nay có ai hơn được con không?

– Dạ! Thưa mẹ, các vị Sa Môn hơn con nhiều lắm!

– Hơn con thế nào?

– Thưa mẹ! Nếu con có chỗ nào không biết, đến hỏi thì các vị giải đáp rõ ràng dễ hiểu; nếu các vị hỏi lại thì con không đáp nổi, bởi vậy nên con biết kém!

– Vậy sao con không đến học hỏi phương pháp ấy?

– Thưa mẹ! Nếu học phương pháp ấy, thì phải làm Sa Môn, con là kẻ thế tục làm sao học được!

– Con sẽ giả làm Sa Môn, học tập cho giỏi, rồi lại trở về với mẹ có hại gì!

– Dạ, mẹ dạy con nghe!

Cách một thời gian, anh mang áo cầm bình giả làm Sa Môn, vào tu học, vì anh có trí thông minh sẵn, chỉ một thời gian đã quán thông tam tạng, một hôm về nhà chơi, mẹ anh hỏi: – Con học đã giỏi hơn các vị Sa Môn chưa?

– Thưa mẹ! Học vấn con giỏi ngang, còn tọa thiền con kém.

– Tại sao con biết kém?

– Thưa mẹ, vì phép tọa thiền khó, lý thú siêu hình, con tập cũng không được, học cũng không đạt, vì thế mỗi khi con đàm luận đều bị thua!

– Từ nay trở đi, có đàm luận nếu thua, thì con cứ la mắng sỉ nhục!

– Thưa mẹ, các vị Sa Môn tu đạo từ bi, có tội gì mà mẹ bảo con mắng!

– Vì con có mắng, thì con được!

Ca Tỳ Lê nghe lời mẹ dạy, cứ mỗi khi đàm luận với các vị Sa Môn bị thua, mắng liền: người là kẻ ngu! Người là loài súc sinh hiểu biết gì? Rồi lại tỷ các vị như đầu con thú này; đầu con thú khác, luôn luôn có thái độ ác liệt đối với cá vị Sa Môn!

Nói tới đây Phật nhắc lại rằng:

– A Nan, ông nên biết Ca Tỳ Lê vì ác tâm mắng các vị Sa Môn thuở đó, nay phải chịu báo làm con cá trăm đầu!

– Kính lạy đức Thế Tôn, Ca Tỳ Lê bao giờ được thoát khỏi thân cá!

– A Nan ông nên biết: như ta lấy Phật nhãn mà coi, hãy còn lâu lắm, trong đời hiền kiếp, một ngàn đức Phật đã quá khứ đi rồi, cũng chưa được thoát.

Khi đó tôi và các vị Tỷ Khưu nghe Phật nói xong, ai nấy đều rùng mình rởn gáy, bi thương giao cảm! Đồng thanh nói: Tất cả chúng sanh thân, miệng, và ý nghĩ, phải nên cẩn thận!

Thấy Phật và đại chúng hỏi đáp như vậy, các người đánh cá và chăn trâu, đều chắp tay bái Phật, xin xuất gia tu phạm hạnh.

Phật khen họ tốt và nói:

– Thiện Lai Tỷ Khưu!

Ngài nói dứt lời, râu tóc họ rụng hết, áo mặc mình họ hóa ra áo Cà Sa, biến thành các vị Sa Môn.

Theo Phật tu học không bao lâu, đã hết lậu nghiệp, đắc quả A La Hán.

Vì đại chúng, Phật giảng về Tứ Diệu Đế, tất cả mọi người được nghe diệu pháp đều phát tâm hướng đạo vô thượng Bồ Đề, cúi đầu tạ lễ mà lui.

Phẩm thứ bốn mươi sáu: TỊNH CƯ THIÊN

Chính tôi được nghe Một thời đức Phật ở nước Xá Vệ, tại vườn Cấp Cô Độc cậy của Kỳ Đà.

Khi bấy giờ vào khoảng chập tối, thấy một đạo quang minh sáng lòe từ trên trời, chiếu xuống rừng Kỳ Hoàn; trong đạo hào quang có một người cao lớn tươi đẹp, mình có ánh sáng như ngọc kim cương, bay xuống vào yết kiến Phật, lễ ba lễ nhiễu ba vòng, quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng:

– Kính lạy đức Thế Tôn! Con ở trên cõi trời Tịnh Cư, nghe thấy Ngài xuất thế độ sinh, tác phước điền cho cõi nhân gian thiên thượng. Con tưởng rất khó gặp, với một tấm lòng thành kính, cung thỉnh đức Thế Tôn và Tăng chúng, nhận cho ngày mai con được cúng dàng trai và tắm gội?

Đức Phật khen có tâm cầu phúc và hứa lời mời của ông. Được Phật hứa khả, ông bay về trời đem các món ăn ngon quý trên thiên cung và các đồ tắm gội, áo mặc xuống rừng Kỳ Hoàn, ông tự hóa ra nhà ôn thất, nước pha không nóng, không lạnh, dâu bôi cỏ kỵ, đầy đủ các vật, rồi lên mời Phật đi tắm. Khi tắm xong, đức Thế Tôn, về tư phòng, ông lên bạch rằng:

– Kính lạy đức Thế Tôn, trai thời đã đến, cúi xin Ngài chứng giám thọ trai.

Đức Phật và Tăng chúng tắm gội xong, chỉnh phục, ra trai đường, dùng bữa ngọ xong, lại trở về bản tòa.

Tôi liền đứng lên, tới đức Thế Tôn, quỳ thẳng chắp tay hỏi rằng:

– Kinh lạy đức Thế Tôn, người ở cõi Trời Tịnh Cư cúng tắm gội hôm nay, trước làm công đức gì, mà được thân hình tốt đẹp, uy đức đoan nghiêm, quanh minh chói sáng, như quả núi báu, cúi xin nói cho chúng con được biết?

Phật dạy: A Nan, muốn biết hãy lắng tai nghe!

– Dạ lạy đức Thế Tôn! Con xin chú ý nghe.

– Người này ở thời đức Phật Tỳ Bà Thi; là một người nghèo. Thường đi làm mướn để nuôi thân. Một hôm được nghe đức Phật Tỳ Bà Thi nói công đức cúng dàng tắm gội lớn lao. Anh ta vui mừng muốn được công đức ấy! Cố gắng đi làm mướn được chút gạo tiền, mua các thứ hàng dùng tắm gội, cùng các món ăn, xếp đặt xong, đi mời Phật và chư Tăng về nhà cúng dàng, do phước ấy lúc chết được sinh lên cõi trời Tịnh Cư, và có quang minh. A Nan, ông nên biết người này, chẳng những hôm nay mời ta và chư Tăng cúng dàng, cho đến thời đức Phật Thi Khí đã xuống thế gian cúng dàng, cho đến thời đức Phật Ca Diếp cũng cúng dàng như hôm nay; người này chẳng những cúng dàng bảy đức Phật; mà sau này còn cúng dàng một ngàn đức Phật đời hiền kiếp, cũng như hôm nay.

Nói xong Ngài thụ ký cho ông đủ một trăm kiếp A Tăng Kỳ sẽ được thành Phật, hiệu là Tịnh Thân, mười hiệu đầy đủ, giáo hóa chúng sinh nhiều không số lượng. Khi đó tôi và tứ chúng ai nấy đều vui mừng đồng thanh nói rằng:

– Đức Như Lai ra đời rất có lợi cho muôn loài chúng sinh, như ông Tịnh Cư Thiên này cúng dàng ít, mà phúc báo vô cùng to lớn!

Phật khen rằng: – Các ông nói thế cũng hay lắm! Như Lai ra đời một mục đích cứu quần sinh, khỏi đau khổ, và làm lợi ích cho tất cả mà thôi!

Nói xong, Ngài lại tuyên diễn chánh pháp cho đại chúng nghe, nghe xong có người đắc vãng lai, quả bất hoàn, cũng có người phát tâm cầu đạo vô thượng Bồ Đề, ai nấy đều vui mừng tạ lễ mà lui.