Công Đức Trì Giới

 

Như chúng ta đã biết, đức Thế Tôn bắt đầu chế định giới luật khi các pháp hữu lậu phát sinh trong tăng đoàn. Các thầy Tỳ kheo dần dà sống xa rời tinh thần giải thoát, bị lôi cuống vào danh vọng và lợi dưỡng. Giới luật buộc phải ra đời để làm hàng rào ngăn chặn sự hư đốn trong tăng đoàn, bảo hộ sự thanh tịnh hòa hợp của Tăng thân, cũng như giữ gìn bản thể Tỳ kheo không cho hư hủy.

Mặt khác, đức Phật vì ngại tiếng gần xa của người thế tục. Sợ họ nhìn vào nếp sống bê tha “tự tung tự tác” của tăng đoàn mà mất đi chánh tín, hoặc chê bai, hoặc hiềm tỵ, hoặc coi giáo đoàn Phật giáo không hơn không kém những ngoại đạo bê bối khác. Cho nên sự có mặt của giới luật là yếu tố vô cùng cần thiết để thành tựu một thanh tịnh Tỳ kheo làm mô phạm cho trời, người và giúp cho hành giả bước đi vững chãi trên con đường thoát ly sinh tử.

 

Như người vá áo, không bao giờ vá vào những chỗ chưa bị rách. Đức Phật cũng không bao giờ quy định trước điều này hay ngăn cấm điều kia khi đệ tử Ngài thực sự chưa làm gì sai với Thánh đạo. Như vậy chứng tỏ giới luật không phải là điều kiện gượng ép hay bó buộc mà nó hoàn toàn mang tính chất tự giác, tự phát nguyện thọ trì. Bất kỳ hành giả nào giữ gìn tịnh giới sẽ được mười điều lợi ích như sau:

– Điều thứ nhứt : Người xuất gia học đạo khi đăng đàn thọ giới cụ túc rồi sẽ được công nhận vào địa vị Chúng Trung Tôn, chính thức gia nhập tăng số đễ trở thành một trong ba ngôi báu. Dưới sự thanh tịnh hòa hợp như nước với sữa, người mới thọ trì giới pháp sẽ được sự bảo hộ chặt chẽ của tăng thân, ngoại duyên không có cơ hội để xâm nhập. Như vậy, giới pháp của Phật tạo cho người xuất gia thọ giới đứng vững vàng trong môi trường an ổn. Một Tỳ kheo giữ gìn 250 giới (Pali : 227 giới) hay Tỳ kheo ni giữ gìn 348 giới (Pali : 311 giới) hết sức nghiêm cẩn là thành viên ưu tú tạo nên những vòng tay chắc chắn, bảo trì sự tồn tại và lớn mạnh của Tăng đoàn. Như thế gọi là “Nhiếp thủ ư Tăng”.

– Điều thứ hai : Người giữ giới thanh tịnh, hương thơm hơn hẳn các loài hoa vì nó bay ngược chiều gió. Người này đi vào trong tăng đoàn ai thấy mà không hoan hỷ, vì không những tăng đoàn được tô đậm nét uy nghiêm, thuần nhã mà dưới mắt người thế tục niềm cung kính lại càng lớn thêm. Và như thế uy tín Tăng đoàn sẽ được nâng lên. Người này giữ giới thanh tịnh thấy người kia cũng giữ giới thanh tịnh thì vô cùng hoan hỷ. Cũng như một người tiêu xài cẩn thận gặp người bạn không bao giờ lãng phí tiền bạc thì tất nhiên họ sẽ rất vui vẻ và thân thiết với nhau, mong gặp nhau để trao đổi hoặc tính chuyện làm ăn. Ngược lại, một người siêng năng làm việc gặp người bạn chỉ biết ham chơi, rượu chè cờ bạc thì chắc chắn người kia sẽ chán nản không muốn gặp lại lần nữa. Người hủy phạm thánh giới cũng thế. Tuy trong chúng tăng không ai khinh miệt vì nghiệp duyên sâu dày của riêng mỗi người nhưng không thể làm cho tăng hoan hỷ được. Hoan hỷ chỉ trong tinh thần giới luật thanh tịnh, thấy sự tiến bộ trong vấn đề tu trì của nhau, chứ không phải là một sự hoan hỷ vì thấy nhau làm những điều sai trái. Cho nên khi đã thọ giới rồi phải hết sức tôn trọng giữ gìn như người đi trong đêm tăm tối cần thiết và quý trọng cây đuốc. Vì giới luật là giải thoát từng phần (biệt giải thoát) nên ai giữ được chừng nào thì công đức lớn lao chừng ấy. Như thế gọi là “Linh Tăng hoan hỷ”.

Điều thứ ba : Tục ngữ thường nói : “Một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ”.Phải có một tình thương chân thật, một quan hệ gắn bó như tay với chân thì một “con ngựa” có đau bệnh phải bỏ ăn, cả tàu ngựa mới chung lòng chịu đói. Người xuất gia học đạo, cất bước đến chân trời cao rộng, phải lìa xa thân thuộc họ hàng, lấy trời mây sông nước làm nhà, chọn người cùng lý tưởng làm ruột thịt. Thế nên khi thấy bất kỳ một Tỳ kheo, hay một Tỳ kheo ni nào bị ba món độc hành hạ, ba nghiệp bị chúng ma sai khiến và tất nhiên giới luật bị hủy phạm thì kăng thân cũng đau lòng xót dạ. Và nếu như vi phạm tới mức độ thương tích nghiêm trọng như người lính vào trận chỉ còn lại cổ họng (phạm Tăng Tàn) phải nhọc lòng tăng thân hợp sức chữa trị; hay bị chặt đứt đầu, đoạn luôn cả tính mạng (phạm Ba La Di) thì tăng thân không những không cứu chữa được mà còn bị xáo trộn, tổn thương vì phải cắt đi một phần máu mũ và chịu sự chê bai,  của người thế tục. Như vậy, cả tăng đoàn đều sống trong giới pháp thanh tịnh, lấy giới luật làm cương lãnh thống nhiếp thì chắc chắn ai cũng được an ổn. Người này làm một cách, người kia làm một cách, không người nào chịu sự kiểm thúc của giới luật mặc tình hành động theo nghiệp thì giáo đoàn sớm muộn gì cũng tan rã; xáo trộn, cách biệt như nước pha trộn với dầu. Cho nên Thánh giới có sự lợi ích thiết thực vô cùng là làm cho chúng Tăng an ổn lợi lạc. Như thế gọi là:“Linh Tăng an lạc”.

Điều thứ tư : Đức Phật nhập diệt đã lâu lắm rồi. Kim tướng của Ngài đã không còn trên cõi đời để cho nhân loại được gần gũi quy kính và khát ngưỡng. Một Tỳ kheo như pháp, nghĩa là sống một đời sống phạm hạnh, có tuệ giác như đức Phật thì hình ảnh đoan nghiêm này có thể thay thế Ngài tuyên dương giáo pháp, làm chỗ phát khởi lòng tin cho những người chưa kính tin Tam Bảo. Thật vậy, nếu như một thầy Tỳ kheo hay một Tỳ kheo ni nào làm hư hạnh thanh tịnh thì chắc chắn “một con sâu sẽ làm sầu nồi canh” cả tăng đoàn sẽ bị tai tiếng, người cư sĩ sẽ không còn niềm kính tín, các tôn giáo khác có cơ hội dèm pha chi trích… Ngọn đuốc chánh pháp hoàn toàn trao về tay hàng tăng bảo thường trụ, nếu như tăng không còn giữ hạnh thanh tịnh, không trở thành một hình tượng mẫu mực thì làm sao chúng sinh lạc lầm trong đêm tối dám tin tưởng ngọn đuốc ấy sẽ dẫn dắt họ ra tới con đường sáng, trở về nhà. Con thuyền phải vững chắc, lành lặn, người láy thuyền phải biết rõ đường đi và thực sự khỏe mạnh thì những người bị đắm chìm trong “dòng mê” mới tin tưởng phó thác sinh mạng để nương theo thuyền trở về “bến giác”. Như thế gọi là “Linh vị tín giả tín”.

Điều thứ năm : Giới luật là hàng rào vững chãi để hành giả ngăn chặn những tên giặc phiền não lén lút xâm nhập vào thân, khẩu, ý. Ba nghiệp này thanh tịnh thì hành giả sẽ sống với trạng thái định. Có thể nói định là hình thức nước trong vì các thứ bụi rác phiền não đã được lóng phèn kỹ, lắng dịu xuống đáy. Lu nước đã trong ngần thì ánh trăng hiện về sẽ rõ nét. Hình thức này gọi là hành giả đã phát sinh tuệ. Nhờ giới mới có định, nhờ định mới có tuệ. Và như vậy Tỳ kheo có tuệ giác là Tỳ kheo đã khéo léo giữ gìn thánh giới. Chính vì thế mà những người đã gieo hạt giống chánh tín vào ruộng phước của chúng tăng thì càng tin chắc rằng đất có đầy đủ chất màu mỡ để hạt giống nẩy mầm và phát triển tốt. Những người đã tin rằng hàng Tăng Bảo là hình ảnh sống động của đức Phật, có thể đảm đương trách nhiệm lèo láy con thuyền trí tuệ đưa chúng sinh thoát khỏi dòng mê sống chết về đến bến giác an vui thì khi thấy Tăng đoàn thanh tịnh hòa hợp, nói năng hay hành động đều đúng như pháp thì niềm tin của họ càng thêm sâu dày và vững chắc. Dù cho những kẻ tà kiến thấy một người làm hư phạm hạnh vội vả hủy nhục, khinh chê Tăng đoàn mục nát, song lòng tin của họ không hề thay đổi vì họ chắc chắn rằng tăng thể trước sau vẫn thanh tịnh; việc hủy phạm giới luật là nghiệp báo, xấu xa riêng của mỗi người. Vì vậy, chúng tăng nghiêm trì giới luật đạt được lợi ích giải thoát chừng nào thì những người học hạnh xuất thế càng tin tưởng, phấn đấu viễn ly dục lạc thế gian chừng ấy. Như thế gọi là “Dĩ tín giả linh tăng trưởng”.

– Điều thứ sáu: Giới luật là chuẩn mực, là thước đo hành vi, ngôn ngữ, phạm hạnh của tăng đoàn. Dưới sự kềm thúc của giới luật thì một người dù phạm tội tới đâu, cố tình che dấu, ương ngạnh không chịu nhận tội sám hối thì cũng có thể điều phục, xử trị xác thực rõ ràng đến đó. Nếu không điều phục được, tăng sẽ yết ma đuổi đi. Song, tinh thần căn bản của chế độ tăng đoàn, sự quyết nghị của tăng đoàn là đại biểu mười phương tăng nên không có một tăng phòng nào dám cho dung thân. Vì thế tăng đoàn chỉ có người sống đúng với tinh thần giới luật, có tội như pháp xử trị, hoàn toàn không chứa những người ngoan cố, khó điều phục. Như thế gọi là“Nan điều phục giả linh điều phục”.

– Điều thứ bảy: Người giữ giới luật nghiêm chánh khi sơ suất vi phạm vào những điều nhỏ nhặt thì người ấy rất lo sợ, phiền muộn trong lòng. Cũng giống như một người ôm phao lội qua con sông lớn. Chợt có kẻ xấu đến xin phao, trong phút lạc lòng vội cho kẻ ấy chút ít. Sau nghĩ lại hối tiếc vô cùng, sợ rằng chiếc phao bị thủng nhiều chỗ sẽ làm phát sinh lổ thủng lớn, khó có hy vọng qua được bờ bên kia. Đó là tinh thần của những người biết tàm quý (hổ thẹn). Người biết tàm quý nếu lỡ để ba nghiệp manh nha dấy động mà kịp thời ra sức dùng giới luật câu thúc lại thì họ sẽ không còn lo sợ nữa. Họ thực sự hết phiền muộn, phấn chấn tinh thần vì năng lực của tịnh giới đã an tâm họ rồi. Do tăng thể là thanh tịnh hòa hợp nên một người được an lạc thì tăng thân cũng an lạc. Như thế gọi là “Linh tàm quý giả đắc an lạc”.

– Điều thứ tám: Chúng ta còn dày đặc vô số phiền não nên gọi thân này là hữu lậu. Mắt ta nhìn vào cái đẹp là bị quyến rũ, say đắm. Tai ta nghe những âm thanh dịu ngọt là đã tỉ tê, ngây ngất. Và mũi, lưỡi, thân, ý cũng như thế. Sáu căn gặp phải sáu trần làm cho phiền não tươm ra nhiễm ô, nhớp nhúa như mục ghẻ rỉ nước vàng. Như thế gọi là lậu hoặc vì những thứ đó làm cho chúng sanh mê mờ bị lọt mãi trong tam giới, không thoát ra được. Năng lực của giới luật là thành trì vững chắc ngăn chặn không cho ý thức liên hệ với thân và khẩu tạo ra nghiệp. Người giữ giới luật khi trông thấy một nhan sắc mặn mà, tuy biết đó là đẹp, là dễ thương (chưa quán được bất tịnh) nhưng không dám đến gần để tiếp xúc vì như thế là phạm giới. Giới luật cảnh cáo rằng tính chất của cái đẹp ấy như hầm lữa dữ, thân phận đoạn dục thoát ly sinh tử của hành giả như người mang cỏ khô, phải nhanh chóng tránh xa, càng xa càng tốt. Do đó, bản thể thanh tịnh được bảo tồn nghiêm chánh. Nhiều lần phiền não dấy khởi như vậy, giới luật luôn luôn tích cực kịp thời ngăn chặn không cho bộc phát ra ngoài để tạo thành nghiệp mà phải nối dài thêm con đường sinh tử. Như thế gọi là “Đoạn lậu hoặc hiện tại”.

– Điều thứ chín: Nếu như hạt giống phiền não đã len lõi tìm cách nẩy mầm và phát triển trong mảnh đất tâm, thì với năng lực giải thoát của giới luật chỉ trong thời gian ngắn những thứ cỏ dại ấy sẽ bị thiêu rụi, nhường chỗ sinh trưởng cho hoa thơm, trái ngọt. Người làm vườn muốn cho hoa thơm trái ngọt không bị cỏ dại lấn hại, cạnh tranh, thì phải tích cực đào xới tận gốc rễ của nó để trong mảnh đất tâm không còn chút dấu tích cỏ dại phiền não. Và như vậy, hiện tại hành giả đã loại trừ được gốc rễ của lậu hoặc bằng năng lực của tịnh giới, thì chắc chắn trong tương lai hành giả sẽ có những bước đi thảnh thơi, vững chãi, tiến xa trên con đường khai thác tuệ giác vô thượng. Nghiệp cũ vứt đi, nghiệp mới không tạo nữa đích thực là việc làm sau rốt của một hành giả thọ trì giới pháp. Như thế gọi là“Đoạn vị lai hữu lậu”.

– Điều thứ mười: “Linh chánh pháp cữu trụ”. Đức Phật trao lại vận mạng Phật pháp cho hàng Tăng bảo và kèm theo lời di chúc là phải hết sức tôn trọng và giữ gìn giới luật. Vì chỉ có giới luật mới có đủ năng lực bảo trì giáo pháp được lưu thông trong cõi trược mà không bị quân ma đánh cướp. Cho nên điều lợi ích sau cùng của việc giữ gìn tịnh giới cũng là điều quan trọng thiết thực nhất mà mỗi hành giả chúng ta phải biết đến. Chỉ trừ những ai là quyến thuộc của Ma Ba Tuần muốn bành trướng thế lực thống nhiếp muôn loài, tiêu diệt chánh pháp mới cố tình xem thường và hủy phạm giới luật. Còn những ai có hoài bảo nối thạnh dòng thánh, đền trả bốn ân, cứu giúp ba cõi thì đừng đổ thừa vì nghiệp lực mà để lòng lung lạc làm mất đi năng lực tịnh giới, đưa gia tài của Phật Tổ đến chỗ khánh tận.

HT.Thích Minh Thông