Truyện Cổ SỰ TÍCH CỨU VẬT PHÓNG SINH (p.7)

61.Tín Đại Sư Cầu Mưa
Tín Đại sư là một vị Cao Tăng đạo hạnh uyên thâm, từ bi rộng lớn, nhân từ và khoan hậu. Người ta đồn rằng có lần ngài thấy một ông lão bắt rùa gánh một giỏ rùa hàng trăm con, không đành lòng trông thấy bấy nhiêu sinh linh kia sắp bị chết, ngài bèn mua hết số đó, rồi thân hành đem đến thả chúng vào trong hồ phóng sinh ở phía Nam núi Phổ Đà. Nghĩa cử ấy đã làm cảm động ít nhiều các thiện nam, tín nữ.

“Ôi, trời không thương người, năm nay bị hạn hán, ruộng đất nứt nẻ như mai rùa, mọi người đều hướng mắt trông chừng về ngọn gió Tây Bắc”. – Bách Tính phân vân than thở như vậy. Năm nay bị hạn hán, sự sinh hoạt của mọi người càng trở nên cùng khốn, cơ hồ có nhà không đủ ăn mỗi ngày một bữa, người ta phải bủa đi cùng trời, cuối đất để tìm cái sống. Thế nhưng có nơi người ta không chịu nổi đói khổ, ai nấy đều kêu khổ liên miên, nhưng chỉ biết hướng lên trời cao cầu nguyện, hoặc giết bò dê để cầu mưa, nhưng chung cục không có lần nào linh ghiệm cả.

Bấy giờ, có người bỗng nhớ đến Tín Đại sư, bảo với mọi người: “Chúng ta hãy đi đến Tín Đại sư thỉnh giáo xem sao? Biết đâu lão sư sẽ có biện pháp hay”.

Thế là mọi người dẫn nhau đến chỗ ngày. Tín Đại sư xuất hiện với dáng vóc từ hòa, nụ cười nhân hậu, dễ cảm động lòng người, nói với đại chúng: “Tốt đấy! Tôi sẽ thay thế các vị, hướng lên trời xanh kỳ đảo cầu mưa; nhưng mà các vị phải hoàn toàn từ bỏ sát sinh thì may ra mới có linh nghiệm”.

Nghe vậy, mọi người đều cung kính tuân lệnh, dùng các thứ hoa quả và thức ăn chay lạt thay thế sinh vật để hiến cúng. Khi ấy Tín Đại sư ngồi kiết già ở chính giữa, hai tay chấp lại, miệng niệm lâm râm, thành kính tác pháp.

“Không hiểu có linh nghiệm không nhỉ?” – Có người tỏ ra hoài nghi thốt lên như vậy.

“Nếu như cầu mà có mưa thật, thì từ nay tôi nhất định ăn chay niệm Phật”. – Kẻ khác lại nghĩ thầm trong bụng.

Rốt cuộc, Tín Đại sư đã không phụ lòng tin cậy của mọi người, vài hạt mưa rơi lộp độp…, rồi một đám mây đen tụ lại, trời đổ xuống một trận mưa như cầm chĩnh rót.

62. Thả Chồn Thoát Được Tai Ương
Hoàng tinh vốn là một loại thực vật bách hợp, cành cao chừng ba thước, lá có hình như những cây kim, đầu mùa hạ, lá bắt đầu ra hoa, có màu xanh nhạt, hình dáng như cái linh úp xuống, quả màu đen và tròn giống như hạt đậu lớn. Người xưa truyền rằng loài cỏ này uống vào có thể làm cho người ta trường thọ.

Có một vị tăng, diện mạo thô kệch, đức hạnh không tu, tên là Liễu Không, nghe nói hoàng tinh làm cho sống lâu, nên tính thí nghiệm một phen xem có linh nghiệm hay không, bèn đem thả xuống dưới giếng khô một ít hoàng tinh, rồi nói với đám dân chúng dốt nát rằng: “Này, ai xuống dưới giếng ngửi được vị hoàng tinh thì có thể trở thành trường sinh bất lão đấy”.

Trong số họ có Đường A Tam tin là nói thật, bèn leo xuống giếng. Để ông xuống tới đáy xong rồi, Liễu Không liền lấy nắp giếng đậy kín lại. Đường A Tam không còn cách nào ra được nữa, chỉ còn có nước chờ chết, nghĩ vậy nên khóc lóc kêu la nguyền rủa: “Lão hòa thượng khốn nạn kia, đồ quân chết tiệt”.

Cho đến lúc hoàng hôn, hốt nhiên có một con chồn từ đâu đến bên bờ giếng, nói bằ஧?tiếng người: “Đừng sợ! Ông tưởng cái nắp giếng không phải là chỗ miệng của hang động sao? Tôi bảo cho ông biết, tôi đây chính là hồ ly tinh có thần thông quảng đại. Ông chỉ cần nằm ngữa dưới đáy giếng, nhìn chằm chặp trên miệng giếng, mắt không chuyển động, càng lâu càng tốt – như trong sách tiên có nói các bậc thần tiên có thể bay được – rồi ông tưởng tượng mình từ dưới đấy giếng bay vút một cái lên khỏi miệng giếng”.

“Có thật không? Thế thì ngươi là ai mà tính đến đây để cứu ta vậy?” – Đường A Tam vui mừng hỏi.

Hồ Ly quay lạy đáp: “Cách đây nhiều năm tôi bị thợ săn bắt được, may nhờ ông chuộc mạng cứu tôi thoát chết, cho nên hôm nay tôi đến để đền ơn”.

Quả nhiên trong giây lát sau đó, Đường A Tam bỗng dưng thấy mình từ dưới giếng bay vụt lên khỏi miệng giếng, may mắn thoát khỏi tử thần.

Sư Liễu Không nghĩ rằng sự kiện vừa rồi chình là do hiệu lực của chất hoàng tinh, như vậy thì đích thực hoàng tinh có thể làm cho người ta sống lâu, thậm chí có thể cải tử hoàn sinh? Thế thì ta hãy thí nghiệm một phen xem sao. Đoạn ông mang theo bên mình rất nhiều hoàng tinh, rồi chui xuống giếng. Một tháng sau, mọi người thấy không có động tịnh gì, bèn đi tìm hiểu, thì hóa ra sư Liễu Không đã chết nghẻo từ lúc nào không biết.

63. Con Rít Nghe Kinh

Có lần Đại sư Liên Trì cư trú tại một ngôi chùa nọ. Một hôm, ngài đi tản bộ trước sân chùa, trông thấy một người xách một mớ rít lớn con, dùng thanh tre xâu đầu và đuôi chúng lại với nhau. Đại sư thấy thế, vô cùng bất nhẫn, nói: “Này vị cư sĩ, ông có thể thả hết tất cả số rít đó được không?”

“Không đời nào, trừ phi thầy đem tiền lại mua”. – Người ấy đáp nhát gừng như thế.

Đại sư liền mỉm cười, hỏi rõ giá tiền, rồi giao đủ số cho ông, đoạn, đem mớ rít ấy mở ra từng con mà thả. Nhưng mà trong số đó đã bị chết quá phân nửa, những con khác thì ngất ngư, chỉ có một con còn mạnh mẽ, nó hướng về phía Đại sư cúi đầu xuống tỏ sự cảm ơn, rồi chuồn nhanh để thoát thân.

Vào một đêm kia, Đại sư cùng với một ông bạn đang ngồi nơi Thiền đường. Ông bạn ấy bỗng nhiên hốt hoảng kêu ầm lên: “Ổ, một con rít to tướng!”

Nhân vì có một con rít thật bự khiến người ta trông thấy phải khiếp sợ, đang bò ngọ ngoạy trên cánh tay của Đại sư từ lúc nào không biết. Ông bạn ấy bèn lấy cái thước mộc ở bên cạnh bàn khều nó định đuổi nó đi, thế nhưng nó không chịu đi. “Coi chừng, nó cắn cho một phát đấy!” – Ông ta hốt hoảng mặt mày xanh ngắt, hướng về đại sư kêu lên. Thế nhưng, Đại sư thản nhiên, thần sắc an định, hết sức trầm tĩnh nói:

“Phải chăng ngươi chính là con rít mà ngày xưa ta đã phóng sinh? Ta tưởng là giờ đây ngươi đến để cảm ơn ta chứ?” – Đại sư nhẹ nhàng nói: “Nếu như ngươi có thể bình tĩnh lắng nghe thì ta sẽ thuyết pháp cho nghe”. – Đại sư lại tiếp tục nói một cách ôn hòa: “Mọi loài hữu tình đều do tâm tạo, nếu tâm tàn bạo thì hóa thành loài hổ báo sài lang; nếu tâm ác độc thì hóa thành loài rắn dữ rít độc. Ngươi hãy từ bỏ tâm ác độc của mình thì mới mong thoát được thân hình nầy…, nghe không. Thôi, ngươi hãy đi đi”.

Thế rồi, con rít từ từ bò ra khỏi cửa sổ. Người bạn ấy thất kinh, vô cùng thán phục sự kiện vừa chứng kiến.

64. Mười Một Kiếp Làm Thân Bò

Diêm vương mặt đen da đồng tròng mắt tròn vo ngồi chễm chệ ở giữa đại điện Diêm La, phán quan ngồi hai bên, xung quanh ngưu đầu mã diện, và ngục tốt đằng đằng sát khí, đồng thời ở trước quỷ vô thường được bày ra đủ thứ dụng cụ tra trấn, khiên người ta trông thấy phải lạnh cả xương sống.

“À, ta biết rồi, ta vừa mới chết đột ngột, còn nơi này là Âm tào Địa phủ đây mà. “Doãn Chí tự nghĩ thế, và không thể kiềm chế được đôi chân cứ run lập cập.

“Quỳ xuống!” Quỷ tốt Ngưu đầu Mã diện lớn tiếng quát nạt. Doãn Chí vừa quỳ xong, ngoái nhìn bên cạnh lại thấy một người cũng đang quỳ.

Người ấy chính là Lý Bật vốn là người đồng hương với ông khi còn ở trên dương thế. Lý Bật chỉ vào mặt ông tố cáo với Minh Vương: “Tất cả đều tại hắn! Nếu hắn không ăn thịt bò, thì tôi đâu có giết bò!”.

Doãn Chí liền vội vàng biện bác: “Nếu hắn không giết bò, thì tôi đã không ăn thịt bò”.

Hai người đang tranh biện nhau như vậy. Minh Vương liền phẫn nộ vỗ án, thét: “Một đứa ăn, một đứa giết, tội lỗi bằng nhau. Bò tận lực cày ruộng để nuôi sống các ngươi, thế mà các ngươi thản nhiên nhẫn tâm giết chúng ăn thịt, vậy thì lương tâm để ở đâu? Ăn nhiều thì giết càng nhiều, còn không ăn thì sẽ không giết, đó là nguyên tắc tối thiểu lẽ nào các ngươi lại không hiểu? Kẻ giết bò là Lý Bật kia, ta phạt ngươi phải chịu khổ tại địa ngục; còn Doãn Chí, khi ngươi còn ở trên dương thế thích ăn thịt bò. Khi nhà ai có giỗ quải mời ngươi, nếu không có thịt bò thì ngươi không chịu ăn, những con bò mà ngươi đã ăn thịt không biết là bao nhiêu, ngươi có biết tội không? Huống nữa, ngươi lại còn bốc thuốc sai lầm, làm chết oan uổng 11 mạng người. Ta phạt người từ giờ phút này phải tái sinh làm bò, trải qua 11 kiếp, để đền mạng cho 11 người, đồng thời chuộc lại tội lỗi lúc còn sống tàn nhẫn ăn thịt bò không biết thương xót. Thôi đi đi”.

Đó là một mẩu chuyện trong sách Nhân Quả Thực Lục. Truyền thuyết kể rằng vào cuối năm Gia Khánh có người tên là Ly Tử Lâm Tự Kỳ sau khi chết rồi sống lại, từng tận mắt chứng kiến sự kiện này nơi chốn âm phủ, rồi ghi chép lại lưu truyền và được in vào sách Nhân Quả Thực Lục.

65. Hồn Chịu Nỗi Khổ Của Trâu Cày

Tháp nhục thân của Địa Tạng Bồ-tát tại Cửu Hoa Sơn vốn là thánh địa mà thiện tín thường đến tham bái hàng ngàn năm qua. Vào năm Đạo Quang thứ hai, có một đoàn người hành hương đến trước tháp chiêm bái. Trong số họ có một người họ Điêu tên Toản, không những không tỏ lộ sự thành tâm, mà bình nhật thường thích thịt, hiếu sát, khoái ăn thịt trâu, thế nên thấy trên vách có một bức họa “Giới sát sinh ngưu đồ” (bức họa cấm việc giết trâu), trong lòng thấm ý liền cười nhạt mấy tiếng, rồi nói một cách không biết hổ thẹn: “Chao ôi, tôi không thể không ăn thịt trâu được”.

Câu nói ấy vừa thốt ra khỏi miệng, thì đột nhiên ông ngã nhào xuống đất quay mòng mòng như cái thăng vừa ở trên bàn rơi xuống, miệng trào bọt mép.

“Xúc phạm đến Bồ-tát rồi”. “Khinh nhờn, quấy nhiễu thánh địa chứ gì”. Mọi người không ai bảo ai đồng thanh than trách.

Thế rồi, cả đoàn người nhất loạt thành tâm đốt hương khấn cầu trước tháp Địa Tạng Vương, hy vọng Bồ-tát thứ tha. Một lát sau, Điêu Toản tựa hồ tỉnh lại, nhưng hai mắt cứ cứng đơ, thần trí mê muội, không nhận ra thứ gì cả. Bấy giờ, đoàn người bèn rời tháp Địa Tạng dùng cán khiêng y xuống núi, đi ngang qua thôn Thiên Bảo, ghé lại hiệu sách của một người cùng họ với ông, dừng chân nghỉ tạm. Khi ấy người chủ quán bèn đặt Điêu Toản nằm trên một tấm ván dài, nhân vì sợ anh ta nỗi tính hung hãn nên dùng dây buộc anh ta vào tấm ván, định bụng sáng mai sẽ mở ra rồi đưa về. Nhưng không ngờ, sáng hôm sau, mọi người phát hiện các dây buộc trên mình Điêu Toản tự nhiên tháo ra hết, y phục chăn mền trên giường và các thứ sách vở kỷ trà trong hiệu sách… nằm vung vãi hoặc rách nát la liệt trên mặt đất, còn anh ta thì dùng tay bò lồm cồm trên đất tựa như dáng trâu đi và miệng kêu la không dứt. Khi Điêu Toản được đưa về tới nhà, mọi người trong nhà trông thấy cảnh tượng ấy liền nhất loạt phát nguyện giữ giới ăn chay, từ đó trở đi không dám ăn thịt trâu nữa, đồng thời phát nguyện cứ mỗi năm vào dịp lễ thánh đản của Địa Tạng Bồ tát trong tháng bảy sẽ đến Cửu Hoa Sơn thành tâm cầu đảo. Trải qua hơn mười ngày như thế, thì chung cục Điêu Toản hồi phục thần trí, kinh hoàng, nói: “Tôi bị khốn khổ cô cùng! Đã phải làm thân trâu cày trải qua hơn mười bữa”.

66. Thân Người Mà Đầu Trâu

Diệp A Tam vốn là một tên đồ tể khét tiếng ở huyện Ngũ Đô, vì ông cầm dao rất nhanh nhẹn, kinh doanh có phương pháp, nên chẳng bao lâu nghiễm nhiên trở thành một phú hộ. Ông thường nói với kẻ khác: “Xem này! Làm đồ tể bán thịt thì cớ gì là không tốt nào? Chẳng phải hiện giờ nhà tôi thứ gì cũng có hết đó sao?”.

Có một bậc nhân sĩ đến khuyên ông: “Sát khí trầm trọng quá, thật không tốt tí nào, huống nữa oan có nơi, nợ có chủ, tôi xem ông hình như sắp làm nghề khác rồi đó!”. “Đổi nghề, thế thì nghề gì? Không những tôi làm nghề này mãi cho tới khi chết, mà tôi còn dạy con cháu kế thừa cái nghề này, ha ha… hễ có tiền là tốt, trên thế giới này có thứ gì so sánh được với tiền bạc nào? Tôi không tin cái lý luận nhân quả báo ứng một cách viễn vong”. Diệp A Tam vỗ vỗ vào ngực tuyên bố một cách rất hách dịch.

Rồi một hôm, Diệp A Tam bị bạo bệnh, chết một cách rất nhanh chóng, cách một đêm bèn sống lại, nhưng mà dưới ống chân da thịt bị tuốt hết, toàn thân màu xanh, bất kể vợ con ngăn cản thế nào, miệng cứ gầm gầm gừ gừ, rồi đột nhiên dõng dạt bước ra khỏi cửa.

Thế rồi ông đến một cái chợ ở giữa thôn nơi có đông người tu tập huyên náo, hễ gặp ai liền nói: “Vua Diêm Vương ra lệnh cho tôi về nói với mọi người chờ có làm các việc ác, ngàn vạn lần không được giết hại, như tôi hiện nay đây này phải chịu hình phạt thống khổ một cách khốc liệt ở dưới âm phủ làm sao có thể so sánh được với các vị đang sống trên dương thế một cách tốt lành!”. Ông vừa nói, vừa gầm gừ tru tréo, với dáng vẻ rất thê thảm, ai nghe cũng phải não lòng.

Ông khuyên bảo từng người như thế xong xuôi, liền trở về nhà, thì chết ngay trên đường đi.

Trong lúc ấy, người vợ, con trai, con gái đang tựa cửa trông ông hồi lâu không thấy trở về, lòng đang nôn nao, thì bỗng dưng đứa con trai đưa tay chỉ mẹ, nói: “Này mẹ, hãy xem kìa, cha từ đâu trở về rồi đó”. Thế nhưng ông ta hình người mà đầu trâu.

67. Lửa Sấm Sét Thiêu Người

Trong quyển sách Hồi Hương Bút Ký có một đoạn mô tả như sau:

Vào đúng giờ ngọ, ngày mồng mười tháng Tư năm Đạo Quang nguyên niên, trên không bỗng nhiên mây đen tụ lại, trời đất tối sầm, rồi mưa gió nổi lên dữ dội, sấm chớp vang rền khiến người đi đường kinh hãi, vội vàng tìm nơi ẩn tránh. Ngay lúc ấy, ở đầu một con hẻm, có một người đang quỳ gối, kêu rống lên một cách thê thảm. Nhân vì anh ta vừa bị sét đánh nhằm, lửa điện thiêu đốt, mặt mày cháy nám, da thịt cuộn lại, đau đớn khiến anh ta kêu thét thiếu điều rách miệng, hai khóe mắt đẫm lệ, đôi tròng trợn tròn cơ hồ như sắp lồi ra ngoài.

Những hình phạt khốc liệt nhất trên đời này cũng không thể nào so sánh được với nỗi đau đớn nát thịt kinh hồn của một người vừa bị sét đánh. Do lửa đốt nên da thịt nứt nẻ, các bắp thịt trên toàn thân rung động. Người ấy bèn dùng tay cào những chỗ thịt bị rã nát, vò lại thành từng miếng, từng miếng rồi bỏ vào miệng, khiến người ta trông thấy phải ói mửa. Anh ta vừa ăn vừa hòm hàm, nói: “Thịt trâu ăn ngon hết cỡ!”. Những người chứng kiến không ai là không cảm thấy lạnh xương sống.

Da thịt trên thân thể hết sạch, tiếng nói khàn khàn, anh ta lê về nhà, trải qua chừng vài tháng rồi tắt thở mà chết. Khi chết, toàn thân chỉ là một bộ xương trơ trọi, trông thật kinh hoàng.

“Vì sao mà chết một cách quá thảm thương như thế hở mẹ?” – Một đứa trẻ con hỏi mẹ nó.

Bà mẹ quay lại trả lời con mình: “Người đó không phải là ai khác mà chính là Phạm Đăng Sơn ở huyện Đào Khê, một kẻ chuyên môn mổ thịt trâu đem bán mà mọi người ai cũng biết. Phạm Đăng Sơn suốt đời giết hại không biết bao nhiêu con trâu, một mặt vừa đem bán, một mặt vừa để ăn. Anh ta từng tỏ ra ngạo nghễ nói với mọi người: “Không khi nào tôi bị nghèo khổ, vì trâu trên đời này đâu có chết hết, cho nên sự giàu có của tôi không khi nào bị suy giảm”. Hơn nữa, tính tình của anh ta vốn hung tàn bạo ngược, ngày thường ưa sinh chuyện thị phi, ỷ sức mạnh hay gây chuyện đánh đấm, người nhà ai cũng nể sợ, vậy mà ai biết được ngày nay anh ta ra nông nổi này!

68. Gia Đình Tan Nát Vì Tội Giết Trâu

Triệu Phú Châu ở làng phiá Đông huyện Trí Hòa vốn là một người thô lỗ chuyên làm nghề mổ trâu. Mỗi ngày ông mổ ít nhất hơn ba con trâu, do đó thu nhập cũng không đến nỗi tệ, dần dần trở thành một trong số ít những người giàu có nhất trong làng.

Khi Triệu Phú Châu đã già thì đứa con trai của ông là Quang Hoa lại kế thừa nghề giết trâu của ông. Trước cửa nhà ông có để một cái chày gỗ tròn tròn, vốn là vật dụng để đập đầu trâu, đã từng bỏ phế qua nhiều năm. Một chuyện ly kỳ đã phát sinh vào một buổi tối nọ. Chính cái chày tròn tròn ấy bộng nhiên hóa thành cái đầu trâu, thế là cứ lăn lông lốc, lông lốc trên đường, ai trông thấy cũng phải le lưỡi kinh hồn bạt vía. Thế rồi, vào buổi tối hôm sau, một người hàng xóm đang ngủ thì mơ màng nghe phảng phất có tiếng của vô số con trâu thi đấu nơi nhà ông Triệu.

Đến ngày thứ ba, Triệu Quang Hoa vẫn bán thịt trâu như ngày thường thì có một người lính nấu ăn vì quyết tranh mua cho được giá, nên hai người gây gổ nhau kịch liệt. Trong cơn giận dữ, Quang Hoa bèn dùng con dao bén chém vào đầu tên lính nấu ăn kia một nhát chí mạng khiến máu chảy đầm đìa, anh ta liền chết ngay lập tức. Triệu Phú Châu vì tuổi tác già nua, thân thể suy nhược, nghe tin con mình giết người, do kích động mạnh khiến tinh thần hoảng laọn, liền hôn mê bất tỉnh; rốt cuộc không có thuốc gì trị khỏi. Thế là ông chết một cách ấm ức. Còn người con thì mang tội giết người nên phải thường mang. Gia đình nhà họ Triệu vì thế mà suy sụp. Đáng thương thay, cả một đoàn cô nhi quả phụ ngày đêm khóc kể, chẳng màng gì đến chuyện ăn mặc nữa.

“Thật không thể tưởng tượng được, gia cảnh nhà ông ấy rốt cuộc lại trở nên cùng khốn đến thế! – Một người nào đó nói.

“Đó là vì nghiệp sát sinh quá nặng, tất nhiên phải chuốc lấy họa ương”. – Một vị thiện tín nói, rồi ông nói thêm: “Thế nên mọi người hãy suy ngẫm mà tránh xa việc sát hại chúng sinh, sống trong hòa khí an tường, ai nấy đều giảm bớt ăn thịt, thì mới tiêu trừ được uế khí, và sự an ổn ở địa phương này mới có thể bảo toàn”.

Ai nghe lời ông nói cũng đều cho là phải. Thế rồi, một người ở làng phía Đông từng nhiều đời sinh sống bằng nghề đồ tể, bèn đem thảm cảnh khuynh gia bại sản của Triệu Phú Châu ra nhắc nhở để răn đe mình, rồi đổi sang nghề khác. Xóm làng ấy từ đó trở về sau thái bình vô sự. Đây là chuyện có người thật, việc thật vào cuối năm Gia Khánh. Thế nên việc thích ăn thịt trâu đương nhiên hoàn toàn không tốt tí nào.

69. Giết Trâu Bị Quả Báo Nhãn Tiền

Nước da tay màu đồng thau, rắn chắc, mặt mày râu ria, hai con mắt đỏ chóe lộ ra vẻ hung khí, đó chính là Cổ Yến Long. Y là một “hung thần sát sinh” lấy nghề mổ trâu làm kế sinh sống ở điạ phương này, khiến mọi người sợ y như sợ cọp.

Nhà ông Cổ ở gần chợ, một căn nhà gỗ tương đối rộng rãi, dùng cho Cổ Yến Long, vợ ông cùng hai đứa con. Hai đứa con ông chẳng biết võ nghệ gì nhưng lực lưỡng, tướng mạo như trang thiếu niên thô lỗ. Mấy cha con đều một duộc hung bạo, nên rất thiện nghệ trong việc mổ trâu. Kể luôn cả bà vợ của ông ta, đao pháp bà cũng nhanh nhẹn, lợi hại chẳng thua kém gì ông chồng. Trong phòng có một cái giường bằng đồng, đây là chiếc giường của vợ chồng Yến Long. Còn hai đứa con nằm ngủ dưới đất cũng thoải mái lắm rồi. Trong phòng bài trí rất thô sơ, đơn giản, có một khúc chày gỗ rất bự dùng để giết trâu. Nơi của sổ treo lủng lẳng nhiều cái móc, dùng để treo nào là đầu trâu, sườn trâu, đùi râu, đuôi trâu v.v… để mà bán, cửa sổ này thường xuyên mở ra.

Hiển nhiên, toàn gia chuyên môn lấy việc giết trâu làm kế sinh nhai, cho nên lâu nay vô số kể những con trâu bị giết hại. Thế rồi, Yến Long đột nhiên cảm thấy hai con mắt bị đau đớn, dùng thuốc chữa trị đều không có hiệu quả, rốt cuộc cả hai mắt đều bị mù.

Đúng là “họa đơn vô chí (tai họa không đến một mình), bà vợ ông cuối năm ấy cũng mắc một chứng bệnh rất kỳ quái không thể tưởng tượng được, toàn bộ da ở thân trên đều bị rách nát nhầy nhụa, khiến quần áo chạm vào đau tựa như dao cắt. Bà nằm trên giường, miệng lảm nhảm thốt lên: “Đây là Ty Pháp chốn âm phủ chiếu theo phương pháp mổ trâu đến cắt xẻ da thịt của tôi, tôi chịu không thấu!”

Âm thanh của bà cực kỳ thê thảm, khiến cho ai nghe được đều không thể nào chịu nổi. Chính bà lão họ Trầm có bổn phận phục dịch bà, đích thân chứng kiến sự thật này, nên biết rằng sự báo ứng của nghiệp sát sinh hết sức là trầm trọng, mà quả báo của nghiệp giết trâu lại càng trầm trọng hơn nữa. Vì loài trâu rất có công với người đời, tại sao lại giết chúng để ăn thịt?

70. Cắm Đầu Vào Nồi Vì Bạo Sát

“Không chịu đi cũng phải đi!” Một người đồ tể mặt mày dữ tợn, thân thể cường tráng, sức lực mạnh bạo, cột đầu một con trâu cưỡng bức lôi đi.

Con trâu già ấy hiển nhiên biết mình bị dắt tới chỗ mổ thịt, chắc chắn phải chết, không thể nào chống cự nổi.

“Mẹ kiếp, không chịu đi hả?” Anh đồ tể đánh thêm một roi, rủa.

Khi đến chỗ cửa hiệu đổi tiền, con trâu già đột nhiên quỳ hai chân xuống đất, hai hàng nước mắt chảy xuống ròng ròng. Chủ nhân cửa hiệu trông thấy thế rất xúc động, liền tỏ lộ nỗi lòng thương xót, hỏi: “Này anh đồ tể! Con trâu ấy bán giá bao nhiêu vậy?”

– Con trâu này dù cho ông trả tám ngàn tôi cũng không bán.

– Thế thì bao nhiêu? Tôi trả mười ngàn đó, có được không?

Ông chủ đổi tiền ày có lòng tốt quyết tâm mua cho được con trâu già ấy chỉ vì muốn cho nó khỏi chết mà thôi. Không ngờ lão đồ tể ấy cười nhạt, đáp một cách hung tợn: “Con trâu này thật là đáng ghét, tôi nhất định chặt đầu, róc thịt nó cho hả giật, ít nhiều gì tôi cũng không bán!”

Hình như con trâu già ấy hiểu được lời nói của ông ta, lập tức đứng dậy, không còn cách nào khác hơn là ngoan ngoãn đi theo ông ta. Lão đồ tể tức giận vì con trâu già ấy đã van xin tình thương của ông chủ hiệu, cho nên không dắt nó đến bán cho lò mổ mà dắt thẳng về nhà, đem ra sau nhà xẻ thịt, rồi cắt từng cục, từng cục thịt của nó bỏ vào trong một cái nồi lớn, nấu rục. Nhân vì trời đã tối, thịt trâu nấu cũng đã chín có thể ăn được, nên anh ta trở về phòng nằm ngủ với vợ. Đến canh năm, lão đồ tể lặng lẽ bước xuống giường, đi tới nồi thịt. Thế nhưng, chờ hồi lâu không thấy trở lại, bà vợ cảm thấy có sự chẳng lành, liền đi đến nồi thịt nhìn xem. Lạ thay, nắp nồi vị dở bật ra, nghe tiếng nước trong nồi bốc ra. Bà bèn tới gần nhìn kỹ, thì ôi thôi, giống như một khúc gỗ trụi được dựng trong nồi! Đáng thương thay, chồng của bà đã tự đâm đầu vào trong nồi, bộ phận từ lưng trở lên hòa lẫn với thịt trâu đã bị nước sôi nhồi cho chín nhừ.